(E) Mail thường lại, người không thấy lại... Hoa dương tàn, đã trãi rêu xanh... .Rêu xanh mấy lớp chung quanh... .Sân đi một bước trăm tình ngẩn ngơ...

Wednesday, October 10, 2007

NGƯỜI VIỆT GỐC MỸ - Nguyễn Thế Thăng

NGƯỜI VIỆT GỐC MỸ - Nguyễn Thế Thăng
Việt Báo Thứ Bảy, 9/29/2007

Tôi biết Mike khoảng hai năm sau ngày đặt chân lên đất Hoa Kỳ. Dù hành trang sẵn có chút ít tiếng Anh từ trước 1975, tôi vẫn phải vất vả hội nhập vào xã hội mới bằng những bước chân chập chững, e dè trong độ tuổi "bất hoặc".

Thật may mắn, tôi tình cờ được gặp và quen biết Mike. Anh đã cho tôi một cái nhìn khá bao quát nước Mỹ từ phong tục tập quán đến văn hóa xã hội lẫn chính trị. Mike đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ cả vật chất tinh thần để tôi có được một nghị lực, niềm tự tin, sự phấn khởi tràn trề khi bắt đầu nửa cuộc đời còn lại nơi tha phương, đất khách.

Trong buổi họp mặt cựu Chiến Binh nhân dịp Memorial Day của State Guards Association of U.S (SGAUS), bàn của tụi tôi rất ồn ào với đủ mọi vấn đề trên trời dưới đất, vui nhất là những chuyện tiếu lâm xoay quanh đời sống thường nhật của người Mỹ, đặc biệt lớp tuổi về hưu phải đương đầu với nhà dưỡng lão, bệnh tật, nhất là bệnh lãng trí Alzheimer.... Hôm ấy, tôi kể chuyện một đôi vợ chồng già, Bác Sĩ nói với người vợ: tôi thấy sức khỏe ông nhà ngày càng khá hơn khi ông tìm được niềm vui nơi Thượng Đế, tin tưởng nhiều hơn vào Chúa Quan Phòng, đến nỗi, ông nghĩ Chúa đang theo giúp đỡ ông trong mọi việc, trong từng bước chân đi. Ông nói với tôi, đêm qua, khi ông vừa mở cửa nhà vệ sinh để đi tiểu thì Chúa bật đèn lên cho ông liền.... Bà vợ la lên, ngắt lời Bác Sĩ: ôi lạy Chúa tôi, ổng lại đái vào tủ lạnh của tôi rồi!!! Cả bọn cười bò lê bò càng. Cười lớn nhất là một chàng cao lớn, tóc vàng tên là Mike. Anh vỗ vai tôi:
- Ê, bạn người gốc nước nào?
- Việt Nam.

Mike bật đứng dậy, bàn tay như hộ pháp chụp lên đầu tôi, nói thật lớn, nguyên văn bằng tiếng Việt đặc sệt giọng miền nam:
- Đ.M. nãy giờ sao hổng nói?
- Ủa, anh biết tiếng Việt hả?

Mike vênh mặt lên, tay phải vỗ bồm bộp vào cái ngực đang ưỡn, vẫn dùng tiếng Việt:
- Hai lần công tác Việt Nam, đem về Mỹ một cô giáo dạy tiếng Việt tại gia từ 1972, học và nói tiếng Việt từ hồi đó đến giờ, bộ ngu lắm sao mà không biết, biết rành quá đi chứ!!

Không ngờ trong bàn lại có một số cựu chiến binh Việt Nam khác, đua nhau xổ ra những câu tiếng Việt họ còn nhớ lõm bõm: Chòi đắt ui (trời đất ơi) chào cắc Ong, mành giỏi? (chào các Ông, mạnh giỏi) Con gái Viết Nàmdde.p lám (con gái VN đẹp lắm) Ngùi Viết Nàmtót lám, đi đi mao, đin - kí đàu(người VN tốt lắm, đi đi mau, điên cái đầu !)....Riêng Mike nói tiếng Việt rất lưu loát, không hề sai một âm nào (giống như ca sĩ Delena hát tiếng Việt vậy), kể cả cách dùng chữ rất trí thức, đôi khi dí dỏm, có lúc thật tiếu lâm. Tôi đã gặp một nhân viên Bộ Ngoại Giao rành tiếng Việt đến nỗi khi tôi đùa hỏi "Anh người gì mà nói tiếng Việt ngon lành vậy" Anh trả lời tỉnh bơ "Tôi người Bắc !". Tôi cũng đã gặp một số người Mỹ chính gốc, thuộc giáo phái Mormon, họ thảo luận Kinh Thánh, đi truyền đạo Tin Lành bằng tiếng Việt thật trôi chảy, nhưng đó là nghề của họ. Còn Mike, anh nói tiếng Việt bằng cả tấm lòng: tên Mỹ của tôi là Micheal, tên Việt của tôi là Mai, theo giọng Việt Nam có nghĩa là hên, là may mắn, còn giọng Việt Bắc (?) hay Việt Trung (?) có nghĩa là hoa mai, một loài hoa rực rỡ mùa xuân ! Vợ tôi vẫn thích kêu tôi là Mai Cồ, hay Anh Cồ, hoặc Cồ ơi chỉ vì tôi bự con! Con rể của nước Đại Cồ Việt mà! Một ông thày bói VN nói số tôi phải cưới vợ họ Trần vì cả đời tôi không thích mặc áo..vv và vv ... tôi há hốc miệng ngồi nghe một chàng mắt xanh, mũi lõ, tóc vàng 100% Anglo-Saxon đang chơi chữ bằng chính ngôn ngữ của tôi !!! Một đêm hội ngộ tuyệt vời, vui như chưa từng thấy từ ngày mất nước, từ ngày sống kiếp lưu vong.

Một tuần sau, Mike điện thoại mời tôi đến nhà. Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: gia đình Mike gồm vợ chồng và 2 con hoàn toàn sinh hoạt theo truyền thống Việt Nam và tự nhận là người VN. Mike nói: đúng ra tôi là người Việt gốc Mỹ! Người bản xứ khi nghe tôi giới thiệu là người VN, nói tiếng VN thì họ vui lắm, vài người lúc đầu cứ tưởng nước VN ở đâu đó bên Đông Âu nên mới tóc vàng, mắt xanh! Người gốc VN lại tưởng tôi là Mỹ lai, càng vui hơn, gần gũi hơn vì có 50% máu Việt Nam trong người mà, ai cũng vui. Mike dùng chữ "vui cả làng"! Cả gia đình dùng tiếng Việt làm ngôn ngữ chính. Sống trên đất Mỹ, Mike tâm sự, nói tiếng Anh là việc đương nhiên, thế mà nhiều gia đình VN từ vợ chồng con cái đều ra vẻ hãnh diện với mớ tiếng Mỹ đôi khi trật giọng, sai văn phạm....hoặc nói đệm, câu nào cũng chêm thêm chữ Mỹ vào, trong khi cố tình lơ lớ tiếng mẹ đẻ của mình, dễ mất gốc quá, tủi hổ ông bà tổ tiên quá, uổng phí quá. Lại có cả vài người viết văn, nhiều chữ thông thường không biết, hay giả vờ không biết, lại phải dùng tiếng Anh mới thấy dổm làm sao. Tôi rất khâm phục những gia đình còn giữ vững truyền thống tốt đẹp VN. Tôi thấy những em bé VN thật dễ thương với tiếng Việt líu lo như chim hót nhưng tôi nhìn các em với cặp mắt bình thường nếu các em nói tiếng Anh, thật bình thường vì đây là nước Mỹ, sau này khi lớn lên phải học thêm một ngoại ngữ ngoài tiếng Anh, họ sẽ hối hận. Tiếc quá, Mike chặt lưỡi, lập đi lập lại, tiếc quá !! Anh có biết "bà lang kẹt" là ai không? Thế mà một ông VN đã tuyên bố tự nhiên như người Sàigòn, vào mỗi mùa Đông, trên giường của ông phải có ít nhất hai bà lang kẹt ngủ mới đã, mới đủ ấm !?!?

Mai Liên, vợ anh, một sinh viên Đại Học Cần Thơ sinh quán Sóc Trăng. Hai người quen nhau khi Mai Liên đi học thêm Anh ngữ trong một lớp do chính Mike phụ trách phần đàm thoại và luyện giọng. Thế rồi hai người yêu nhau nhưng không thể tiến đến hôn nhân vì gia đình hai bên đều không tán thành. Mike phải xin trở lại Việt Nam lần thứ hai, kiên trì thuyết phục cha mẹ Mai Liên bằng chính tiếng Việt anh đã học được từ người tình. Cuối cùng không những cha mẹ, anh chị em của Mai Liên mà cả bà con xóm giềng cũng hài lòng với "thằng Cồ" vui tánh dễ thương lúc nào, nơi nào cũng pha trò được.

Riêng gia đình Mike lúc đầu vẫn chưa mấy thiện cảm với người dâu dị tộc. Hai vợ chồng son cố gắng sống hòa hợp với mọi người, không tỏ ra khó chịu mà còn thấy vui vui với cái tên Liên vài người cố tình đọc trại thành Alien (=người lạ). Chẳng bao lâu sau tình thế hoàn toàn đảo ngược. Khi cha mẹ Mike dọn vô nhà dưỡng lão chỉ có vợ chồng Mike thăm viếng thường xuyên. Ông bà rất cảm động, thỉnh thoảng lại công khai ngỏ lời xin lỗi Mai Liên và giới thiệu với mọi người Liên là đứa con gái yêu quý nhất. Bốn gia đình anh chị của Mike tan vỡ hết ba, sự kiện phổ thông với trên 60% gia đình Mỹ bị rắc rối trong hôn nhân. Cứ một lần li dị lại một lần chia gia tài, riết giống như chuyện thường tình. Tuy nhiên, có điều lạ là sau khi chia tay, họ vẫn liên lạc qua lại với nhau, coi nhau như bạn, không ai ghen tuông gì hết.

“Tạ ơn trời đất (Mike không dùng chữ Chúa) tôi có được một bà vợ tuyệt vời. Liên lo lắng chăm sóc tôi kỹ lắm từ mọi sinh hoạt đến từng miếng ăn hàng ngày. Tôi đã quen và rất thích thức ăn Việt Nam. Rất hợp lý nếu ta không biết kiêng cữ, cứ ăn tầm bậy là đưa đủ thứ bệnh tật vào thân thể mình thôi. Anh ăn cái gì anh sẽ như thứ ấy (1). Ăn nhiều rau, đậu, trái cây tươi, da thịt anh sẽ tươi. Anh ăn mỡ, cơ thể anh sẽ phải đeo mỡ (2). Tốt nhứt nên ăn chay. Gia đình tôi ăn chay mỗi tuần một lần, nhiều nhất là các loại rau. Đồ chay Liên làm ngon lắm. Món nào cũng ngon, cũng tốt cho sức khỏe vì Liên chỉ dùng dầu olive thay cho mỡ động vật, không mặn lắm, không ngọt quá như đồ ăn Mỹ, nhất là hoàn toàn không dùng bột ngọt. Đặc biệt nước mắm ăn riết rồi mê luôn nhưng điều cần thiết nước mắm mua ở chợ về phải đem nấu cho sôi lên rồi đổ lại vô chai xài vì trong nước mắm có thể có nhiều siêu vi trùng, nhất là siêu vi bệnh gan, các loại mắm cũng vậy. Chế độ ăn uống như thế làm sao bị phát phì như ba phần tư dân Mỹ hiện nay. Đến như con nít trên 6 tuổi thì phân nửa đã vượt quá trọng lượng được coi là mập rồi. Còn về thẩm mỹ, Anh thấy không, thông thường da người Mỹ trắng lại quá trắng, trắng nhễ nhại (?!)trắng như Bạch Tuyết nên trông có vẻ yếu đuối, bệnh tật, vì vậy họ phải đi phơi nắng ngoài biển hay vô các phòng nhuộm da trong các tanning clubs để cho da họ có màu đồng nâu hay màu bánh mật, nhìn rất khỏe mạnh, thể thao hơn, mốt thời thượng mà! Bà xã tôi được Trời Đất thương cho cái màu tự nhiên đó từ bé nên Ông Bà Ngoại sắp nhỏ mới đặt cho cái tên Mai Liên, anh đọc lái lại coi?!”

Nghe đến đây chính tôi đã phải kêu lên: chu choa mệ tổ ơi, mần răng mà cái chi mô anh cũng biết hết rứa chừ hết biết luôn. Mike hiện nguyên hình một "chú Sam" há hốc miệng "Wh...what? What d'you say?"
Ngay sau khi dành thắng lợi đem được Mai Liên về Mỹ, Mike giải ngũ. Liên đi làm 2 nghề khác nhau cho phép Mike trở lại Đại Học lấy xong bằng Kỹ Sư Điện Tử. Mike rất vui mỗi lần nhắc lại giai đoạn này: tôi sướng như Ông Trời con, ngày ngày đi học, còn Liên cực lắm, hy sinh vừa đi làm vừa lo cho tôi còn hơn Ba Má tôi ngày xưa, dĩ nhiên tôi yên tâm học xong rất nhanh.

Bên Mỹ này anh muốn học là phải được, muốn học gì cũng được, muốn lấy bằng gì cũng có, chỉ cần anh có ý thích và có ý chí. Anh có thể học toàn thời gian, bán thời gian, học hàm thụ hay học ngay cả trên online. Không có tiền thì Chánh Phủ hoặc một cơ sở, một công ty hay một tổ chức nào đó ứng tiền cho mượn nếu đủ tiêu chuẩn. Tuy nhiên khi nộp đơn xin việc làm, người chủ chỉ căn cứ một phần trên bằng cấp, còn phần lớn dựa trên kinh nghiệm việc làm đã qua và sự giới thiệu, phê bình của các chủ cũ. Tôi là cựu chiến binh, gần lấy xong bằng Kỹ Sư thì hãng Điện Tử Intel đã nhận trước rồi.

Năm đầu tiên tôi đi làm Liên chỉ còn làm một nghề, đến năm thứ hai Liên nghỉ việc hoàn toàn để đi học ngành Y tá. Đó là lý do chúng tôi chậm có con và chỉ có hai đứa. Bên Mỹ này nghe nhà nào có 3, 4 con là thiên hạ lắc đầu, le lưỡi liền. Có bầu, sanh con thật dễ dàng nhưng khó nhất, đau đầu nhất là vấn đề giáo dục, không dạy dỗ con được thì lại đổ thừa "cha mẹ sanh con, Trời sanh tánh", chưa chắc vậy đâu ! Có rất nhiều gia đình nuôi con đến 18 tuổi là bắt nó phải tự lập, nghĩa là đẩy nó ra ngoài xã hội, xét cho cùng điều này cũng có phần tốt. Vì vậy, cũng rất công bằng khi bố mẹ già yếu, đến phiên chúng nó sẽ đẩy bố mẹ vô nhà hưu dưỡng thôi! - Mai Lan ơi, ra chào chú đi con, Mike gọi. Một cô gái Mỹ đẹp như tài tử điện ảnh Hollywood tươi cười bước ra, hai tay khoanh trước ngực, đầu cúi xuống, nói bằng tiếng Việt rất chuẩn:
- Cháu tên Mai Lan, cháu chào chú. Tôi đứng dậy, Mai Lan bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay:
- Chú tên là Long, Chú rất hân hạnh được biết cháu, được quen biết gia đình cháu, một gia đình tuyệt vời, cháu là một cô gái tuyệt vời. Cháu có về VN lần nào chưa?
- Dạ, cám ơn lời khen của Chú. Cháu đã về VN hai lần. Năm rồi cháu đi VN miễn phí.
- Sao vậy?
- Cháu có hai người bạn, hai chị em, bố mẹ họ là người Việt, hai bạn cháu không rành tiếng Việt nên bao cháu đi chung về VN để làm thông ngôn. Vui quá chừng. Bà con chòm xóm dưới quê cứ nhìn cháu chằm chằm: sao kỳ quá hè, Mỹ nói tiếng Việt còn Việt đặc thì bù trất, kỳ hén !Lại nữa, Mỹ thì tên Việt còn Việt lại lấy tên Mỹ, ngộ ghê!! Cháu dịch lại cho hai đứa bạn nghe, tụi nó mắc cỡ quá, về đến Mỹ bắt đầu học tiếng Việt ngay. Ba má tụi nó kèm riết, cháu cũng dạy thêm, bây giờ nói được hơi nhiều rồi. Hè năm nay tụi cháu lại về VN nhưng lần này cháu phải trả tiền vé máy bay vì bạn cháu không cần thông ngôn nữa, thông ngôn thất nghiệp rồi !!Ông bà ngoại cùng gia đình mấy Cậu, mấy Dì thương cháu lắm. Cũng có thể sẽ có anh Liêm đi cùng.
- Liêm là ai?
- Anh Hai cháu. Ảnh tên là Uy Liêm.
- Có phải đó là phiên âm tiếng Việt của chữ William không?
- Dạ đúng
- Thế anh cháu thích tên nào?
- Cả nhà cháu thích tên Uy Liêm hơn vì đa số tên riêng của Mỹ không có ý nghĩa gì hết, thường được bắt chước từ trong Kinh Thánh. Còn tên VN có lồng nghĩa trong đó, có khi mang cả ước vọng của cha mẹ đặt ở người con.
- Vậy Uy Liêm nghĩa là sao? Tôi giả vờ hỏi.
- Uy là uy phong, uy nghi, uy quyền, uy lực... còn Liêm là liêm chính, liêm sỉ, thanh liêm. Người có quyền uy thì phải liêm chính. Người ta khi có chút quyền chức thường hay sanh tật xấu, rồi tham nhũng, rồi phách lối. Ba má cháu muốn anh Hai khi nào có địa vị lớn thì phải sống thanh liêm.
- Anh hai cháu đã có địa vị lớn chưa?
- Dạ ảnh chỉ mới là Đại Úy Thủy Quân Lục Chiến đang chiến đấu ở Iraq . Còn 4 tháng nữa ảnh sẽ xong nghĩa vụ, khi trở lại Mỹ, được nghỉ phép, anh Hai sẽ theo tụi cháu về thăm Ngoại.
- Anh Hai có biết tiếng Việt không?
- Hết sẩy Chú ơi, dù dở nhứt nhà nhưng cũng gần ngang tầm với Ba cháu ...

Mike ngồi nghe tôi khảo hạch cô con gái, miệng cứ tủm tỉm cười. Tôi thật sự cảm động, nếu không nói là choáng váng, cứ ngây người ra. Giả sử có ai đó kể tôi nghe về một gia đình như thế này, về một cô gái Mỹ thế này, về một Đại Úy Đại Đội Trưởng TQLC Mỹ như vậy... chắc chắn tôi không thể tin vì tôi đã phải chứng kiến nhiều hoàn cảnh trái ngược.

Có lần, vừa bước vô nhà một người bạn VN, ngay tại phòng khách treo một tấm bảng bằng carton với chữ: "No Vietnamese!" tôi ngập ngừng, hơi tái mặt, rồi lẳng lặng, chẳng nói chẳng rằng bước ra ngoài. Chủ nhà chạy theo đon đả. Tôi nuốt nước miếng cho dằn cái gì đó nghèn nghẹn trong cổ họng rồi chậm rãi: có phải ông không muốn tiếp khách người VN hay ông không cho phép ai ngồi trong phòng đó nói tiếng Việt ? Anh ta phân bua: tôi chỉ muốn bà Xã và các cháu luyện tiếng Anh cho thật nhuyễn để mau thành dân Mỹ thôi !?!? Vậy nếu ông vào một nhà hàng, một công viên, lên máy bay, xe lửa, xe buýt hay vô nhà một người Mỹ nào đó, ông thấy hàng chữ này, ông hiểu nó thế nào?!?! Cách đây vài chục năm, khi tình trạng kỳ thị chủng tộc còn tồn tại trên đất nước Mỹ, người ta thường thấy trên xe buýt hay công viên có đeo bảng: No dogs and negroes (cấm chó và người da đen). Đến thập niên 60 mới chấm dứt. Bây giờ ông treo "No Vietnamese" trong phòng khách nghĩa là làm sao?!?!

Ông ta gỡ bảng xuống liền. Ông bà này nghe nói qua Mỹ có mấy năm đã về VN xum xue, bà con bên nhà ngạc nhiên thấy ông và gia đình lột xác nhanh quá, sức mạnh một đại cường quốc có khác. Bên này cả hai ông bà đi làm vệ sinh, quét dọn trường học, về VN khoe làm trong ngành giáo dục nên rất ít nói tiếng Việt. Riêng dân Mỹ hay người VN tại Mỹ chỉ nghe âm Mít đặc, không cần nhìn, đều biết ngay ông chánh gốc là "dân địa phương" Alaska vì, mười câu hết chín, ông đều nhắc đến tên một thành phố lớn của Tiểu Bang này: Du nô (3). Nhưng thôi, đây là đất nước tự do mà! Tự do dân chủ với lưỡng đảng đàng hoàng.
Mike thường nói đùa với tôi "coi dzậy chứ hổng phải dzậy mà còn quá cha dzậy nữa" khi đề cập đến hệ thống lưỡng đảng của Hoa Kỳ hiện nay. Cứ nhìn vô gia đình Thống Đốc Tiểu Bang California : Ông chồng Schwarzenegger thuộc đảng Cộng Hòa trong khi bà vợ lại theo Dân Chủ. Khi làm việc, hai đảng kiểm soát lẫn nhau như vợ theo dõi chồng, như chồng để ý coi chừng bà vợ. Nhưng khi có những sự kiện trọng đại liên quan đến an ninh đất nước, đến sự tồn vong của quốc gia, đến sự sống còn của dân tộc Hoa Kỳ thì hai đảng chỉ là một như sau vụ 9/11 mấy năm trước đây. Hình như có một thứ siêu chính quyền đâu đó quyết định tất cả, tương tự ảnh hưởng nội ngoại trên hai vợ chồng giữ cho hạnh phúc lứa đôi bền vững, từ đó nuôi dạy con cái thành công, kinh tế gia đình thịnh vượng, cho nước Mỹ chỉ mới hơn 200 năm lập quốc đã tiến lên bá chủ hoàn cầu. Nước Mỹ đang đứng nhất trên toàn thế giới về mọi phương diện nhưng rất tiếc, nhất luôn về vô luân thường, vô đạo lý và nhất luôn về cả lãnh vực tội phạm!

Đấy, Mike hướng dẫn cho tôi nhiều, rất nhiều điều, nhiều chuyện. Chúng tôi ngày càng thân hơn khi biết tôi ngày xưa cũng có một thời gian đi dạy học. Vợ chồng Mike và cháu Lan lại thích tìm hiểu sâu xa tiếng Việt hơn qua những từ ngữ Hán Nôm mà tôi đã được Ông Ngoại, một Cử Nhân Hán Văn, khoa thi cuối cùng, dạy dỗ. Nhờ vợ chồng Mike, tôi thực sự hội nhập vào xã hội Mỹ lúc nào không hay. Từ sự nhiệt tình giới thiệu của Mike, tôi được một chân Technician trong hãng Merix ở Forest Grove. Một năm sau, Mike khuyến khích và hướng dẫn vợ chồng tôi mua một cơ sở kinh doanh riêng ngay trung tâm thành phố Tigard đến nay đã tròn 12 năm.

Thời gian cứ lặng lẽ trôi nhanh như những áng mây ngoài khung trời rộng. Thênh thang như giấc mơ Hoa Kỳ của gia đình tôi liên tiếp nở hoa. Cho đến một ngày... Tin như sét đánh ngang tai. Hai vợ chồng Mike vừa qua đời trong một tai nạn xe! Cháu Lan gọi báo cho tôi bằng tiếng được tiếng mất, tức tưởi, nghẹn ngào. Một anh Mễ nhập cư bất hợp pháp say rượu lái xe vào đường cấm ngược chiều. Xe Toyota Camry của vợ chồng Mike nằm bẹp dí dưới gầm chiếc xe tải F350 chở đầy đồ nghề làm vườn cắt cỏ. Toán cấp cứu phải cưa xe mới đem được hai người ra nhưng cả hai đều đã tắt thở vì sức va chạm quá mạnh và vì vết thương quá nặng.... Lại thêm một nhức nhối của người Mỹ trước làn sóng nhập cư bất hợp pháp... lại thêm một vết đen tệ nạn say rượu, say xì ke lái xe DUII (4) ngày càng nhiều....

Tang lễ thật đơn giản gồm đa số người quen gia đình, bạn bè làm chung Intel với Mike và đồng nghiệp trong bệnh viện của Mai Liên. Cháu Uy Liêm được thông báo từ Iraq về để vừa kịp nhìn cha mẹ lần cuối trước khi đóng nắp quan tài. Trời Oregon chiều nay mưa buồn day dứt. Nghĩa trang Finley Sunset Hills với những dốc thoai thoải quay về hướng Tây, về hướng Thái Bình Dương mà tận cùng bên kia bờ có một vùng đất mang tên VN, quê hương yêu dấu của Mike và Mai Liên suốt cả đời người. Gió buốt miên man như xoáy sâu vào tận xương tủy. Như chưa bao giờ. Vài tia sáng yếu ớt long lanh trên những ngọn cỏ đầm đìa. Mắt tôi nhạt nhòa trong cái lạnh tái tê. Cũng xong một kiếp trong vô lượng luân hồi. Một chút gì đó có lẽ hai người đang hài lòng là vẫn còn được đi chung với nhau, vẫn còn được tay trong tay, cùng qua một thế giới khác, hy vọng sẽ tốt đẹp hơn. Ít nhất về vật chất bây giờ xác hai người vẫn còn được nằm bên nhau, hai ngôi mộ song song, cùng nhìn về quê hương VN tít mù xa thẳm cuối chân trời.

Riêng tôi lòng trĩu nặng mối ân tình chưa thanh thỏa. Trong suốt cuộc đời còn lại, dù còn sống trên đất Mỹ này, hay giang hồ đó đây, hình ảnh tươi vui khỏe mạnh, tràn đầy sinh lực, gương mặt dễ thương, cử chỉ ân cần, lời nói nhã nhặn nhiệt tình và đặc biệt ân nghĩa của vợ chồng Mike đã dành cho gia đình tôi chắc chắn sẽ khó phai mờ.

Cám ơn Michael Erickson. Cám ơn Mailiên Trần.

Xin tạm biệt.

Thursday, September 20, 2007

NỘI - Tiểu Tử -Vùng Paris

NO^.I
Tiểu Tử,
Vùng Paris

- Nội xuống kìa!
- Nội xuống ! Ê ! Nội xuống !
- Nội xuống !
Bầy con tôi reo mừng, chạy ùa ra ngõ. Ngoài đó, tiếng xích lô máy cũng vừa tắt.
Trong buồng, vợ tôi gom vội mấy giấy tờ hồ sơ nhét vào xắc tay, nhìn tôi, im lặng. Tôi hiểu: bà già xuống như vậy, làm sao giấu được chuyện tôi và hai đứa lớn sẽ vượt biên ? Sáng sớm mai là đi rồi …
Tôi choàng tay ôm vai vợ tôi, siết nhẹ :
- Không sao đâu. Để anh lựa lúc nói chuyện đó với má.
Khi vợ chồng tôi bước ra hiên nhà thì bầy nhỏ cũng vừa vào tới sân. Đứa xách giỏ, đứa xách bao, đứa ôm gói, hí hửng vui mừng. Bởi vì mỗi lần bà nội chúng nó từ Gò Dầu xuống thăm đều có mang theo rất nhiều đồ ăn, bánh trái thịt thà … Những ngày sau đó, mâm cơm dưa muối thường ngày được thay thế bằng những món ăn do tay bà nội tụi nó nấu nướng nêm-nếm. Nhờ vậy, mấy bữa cơm có cái phong vị của ngày xưa thuở mà miền Nam chưa mất vào tay Việt Cộng … Mấy con tôi thường gọi đùa bà Nội bằng « trưởng ban hậu cần » hoặc chị « nuôi » và lâu lâu hay trông có bà nội xuống. Và lúc nào câu chào mừng của chúng nó cũng đều giống như nhau : « Nội mạnh hả Nội ? Nội có đem gì xuống ăn không Nội ? ». Mới đầu, tôi nghe chướng tai, nhưng sống trong sự thiếu thốn triền miên của chế độ xã hội chủ nghĩa, lần hồi chính bản thân tôi cũng chỉ nghĩ đến miếng ăn thôi !
Con gái út tôi, mười một tuổi, một tay xách giỏ trầu của bà nội, một tay cặp-kè với bà nó đi vào như hai người bạn. Bà nó cưng nó nhứt nhà. Lúc nào xuống, cũng ngủ chung với nó để nghe nó kể chuyện. Nó thích bà nội ở điều đó và thường nói : « Ở nhà này chỉ có nội là thích nghe em kể chuyện thôi ! ». Thật ra, nó có lối kể chuyện không đầu không đuôi làm mấy anh mấy chị nó bực. Trái lại, bà nó cho đó là một thi vị của tuổi thơ, nên hay biểu nó kể chuyện cho bà nghe, để lâu lâu bà cười chảy nước mắt.
Tôi hỏi má tôi :
- Sao bữa nay xuống trưa vậy nội ?
Vợ chồng tôi hay gọi má tôi bằng « nội » như các con. Nói theo tụi nó, riết rồi quen miệng. Lâu lâu, chúng tôi cũng có gọi bằng « má » nhưng sao vẫn không nghe đầm-ấm nồng-nàn bằng tiếng « nội » của các con. Hồi cha tôi còn sống, tụi nhỏ còn gọi rõ ra « ông nội » hay « bà nội ». Cha tôi mất đi, ít lâu sau, chúng nó chỉ còn dùng có tiếng « nội » ngắn gọn để gọi bà của chúng nó, ngắn gọn nhưng âm thanh lại đầy trìu mến.
Má tôi bước vào nhà, vừa cởi áo bà ba vừa trả lời :
- Thôi đi mầy ơi ! … Mấy thằng công an ở Trảng Bàng mắc dịch ! Tao lên xe hồi sáng chớ bộ. Tới trạm Trảng Bàng tụi nó xét thấy tao có đem một lon ghi-gô mỡ nước, vậy là bắt tao ở lại. Nói phải quấy bao nhiêu cũng không nghe. Cứ đề quyết là tao đi buôn lậu !
Rồi má tôi liệng cái áo lên thành ghế bàn ăn, nói mà tôi có cảm tưởng như bà đang phân trần ở Trảng Bàng :
- Đi buôn lậu cái gì mà chỉ có một lon mở nước ? Ai đó nghĩ coi ! Nội tiền xe đi xuống đi lên cũng hơn tiền lon mỡ rồi. Đi buôn kiểu gì mà ngu dại vậy hổng biết !
- Dễ hôn ! Nội đâu có để cho tụi nó « ăn » lon mỡ, con ! Mỡ heo nội thắng đem xuống cho tụi con chớ bộ.
Ngừng lại, hớp một hớp nước mát mà con út vừa đem ra, xong bà kể tiếp, trong lúc các con tôi quây quần lại nghe:
- Cái rồi … cứ dan ca riết làm nội phát ghét, nội đổ lì, ngồi lại đó đợi tụi nó muốn giải đi đâu thì giải.
Nghe đến đây, bầy con tôi cười thích thú. Bởi vì tụi nó từng nghe ông nội tụi nó kể những chuyện « gan cùng mình » của bà nội hồi xưa khi cùng chồng vào khu kháng chiến, nhứt là giai đoạn trở về hoạt động ngầm ở thành phố sau này, trước hiệp định Genève …
Con út nóng nảy giục :
- Rồi sao nữa nội ?
- Cái rồi … lối mười một mười hai giờ gì đó nội hổng biết nữa. Ờ … cở đứng bóng à. Có thằng cán bộ đạp xe đi ngang. Nó đi qua khỏi rồi chớ, nhưng chắc nó nhìn thấy nội nên hoành xe lại chào hỏi : « Ũa ? Bà Tám đi đâu mà ngồi đó vậy ? ». Nội nhìn ra là thằng Kiểu con thầy giáo Chén ở Tha-La, tụi bây không biết đâu. Kế nội kể hết đầu đuôi câu chuyện cho nó nghe. Nó cười ngất. Rồi nhờ nó can thiệp nên nội mới đi được đó. Lên xe thì đã trưa trờ rồi … Ti ! Kiếm cây quạt cho nội, con !
Ti là tên con út. Cây quạt là miếng mo cau mà má tôi cắt, vanh thành hình rồi đem ép giữa hai tấm thớt dầy cho nó bớt cong .Má tôi đem từ Gò Dầu xuống bốn năm cây quạt mo phân phát cho mấy cháu, nói : « Nội thấy ba má tụi con gỡ bán hết quạt máy, nội mới làm thứ này đem xuống cho tụi con xài. Kệ nó, xấu xấu vậy chớ nó lâu rách ».
Con út cầm quạt ra đứng cạnh nội quạt nhè nhẹ mà mặt mày tươi rói : tối nay nó có « bạn » ngủ chung để kể chuyện ! Vợ tôi đem áo bà ba của má tôi vào buồng mấy đứa con gái, từ trong đó hỏi vọng ra :
- Nội ăn gì chưa nội ?
- Khỏi lo ! Tao ăn rồi. Để tao têm miếng trầu rồi tao với mấy đứa nhỏ soạn đồ ra coi có hư bể gì không cái đã.
Rồi mấy bà cháu kéo nhau ra nhà sau. Tôi nhìn theo má tôi mà bỗng nghe lòng dào dạc. Từ bao nhiêu năm nay, trên người má tôi chẳng có gì thay đổi. Vẫn loại quần vải đen lưng rút, vẫn áo túi trắng ngắn tay có hai cái túi thật đặc biệt do má tôi tự cắt may : miệng túi cao lên tới ngực chớ không nằm dưới eo hông như những áo túi thường thấy. Mấy đứa nhỏ hay đùa : « Cha … bộ sợ chúng nó móc túi hay sao mà nội làm túi sâu vậy nội ? » Má tôi cười : « Ậy ! Vậy chớ túi này chứa nhiều thứ quí lắm à bây ». Những thứ gì không biết, chớ thấy má tôi còn cẩn thận ghim miệng túi lại bằng cây kim tây !
Tôi là con một của má tôi. Vậy mà sau khi cha tôi chết đem về chôn ở Gò Dầu, quê tôi, má tôi ở luôn trên đó. Nói là để châm sóc mồ mả và vườn tược cây trái. Thật ra, tại vì má tôi không thích ở Sài Gòn, mặc dù rất thương mấy đứa cháu. Hồi còn ở chung với vợ chồng tôi để tránh pháo kích - dạo đó, Việt cộng hay bắn hỏa tiễn vào Gò Dầu về đêm – má tôi thường chắc lưỡi nói : « Thiệt … không biết cái xứ gì mà ăn rồi cứ đi ra đi vô, hổng làm gì ráo ». Cái « xứ » Sàigòn, đối với má tôi, nó « tù chân tù tay » lắm, trong lúc ở Gò Dầu má tôi có nhà cửa đất đai rộng rãi, cây trái xum xuê, và dù đã cao niên, má tôi vẫn thường xuyên xách cuốt xách dao ra làm vườn, làm cỏ. Vả lại chung quanh đất má tôi, là nhà đất của các anh bà con bên ngoại của tôi, thành ra má tôi qua lại cũng gần. Các anh chị bà con tới lui thăm viếng giúp đỡ cũng dễ. Cho nên, dù ở một mình trên đó, má tôi vẫn không thấy cô đơn hiu quạnh. Lâu lâu nhớ bầy con tôi thì xuống chơi với chúng nó năm bảy bữa rồi về. Má tôi hay nói đùa là «đi đổi gió»!
Mấy năm sau ngày mất nước, cuộc sống của gia đình tôi càng ngày càng bẩn chật. Cũng như thiên hạ, vợ chồng tôi bán đồ đạc trong nhà lần lần để ăn. Má tôi biết như vậy nên xuống thăm mấy đứa nhỏ thường hơn, để mang « cái gì để ăn » cho chúng nó. Nhiều khi nằm đêm tôi ứa nước mắt mà nghĩ rằng lẽ ra tôi phải nuôi má tôi chớ, dù gì tôi cũng mới ngoài bốn mươi lăm còn má tôi thì tuổi đã về chiều. Vậy mà bây giờ, mặc dù là công nhân viên nhà nước xã hội chủ nghĩa với lương kỹ sư « bật hai trên sáu », tôi đã không nuôi nổi má tôi, mà trái lại chính má tôi phải cắt-ca cắt-củm mang đồ ăn xuống tiếp tế cho gia đình tôi, giống như má tôi mớm cơm đút cháo cho tôi thuở tôi còn thơ ấu ! Thật là một « cuộc đổi đời » ( Việt Cộng thường rêu rao : « Cách mạng là một cuộc đổi đời » ). Nhưng cuộc đổi đời của mẹ con tôi thì thật là vừa chua cay vừa hài hước !
Lắm khi tôi tự hỏi : « Rồi sẽ đi đến đâu ? ». Bấy giờ tôi đã trở thành « trưởng ban văn nghệ » của cơ quan, một lối đi « ngang » mà nhờ đó tôi còn được ở lại với sở cũ. Bởi vì mấy chục năm kinh nghiệm trong nghề nghiệp chánh của tôi, nhà nước cách mạng cho là vô dụng, không « đạt yêu cầu ». Thành ra, tối ngày tôi chỉ lo cho đoàn « nghiệp dư » của cơ quan tập dượt hát múa. Thật là hề. Còn về phần các con tôi, tương lai gần nhứt là đi đánh giặc Kampuchia, tương lai xa hơn thì thật là mù mịt !
Trong lúc tôi không có lối thoát thì một người bạn đề nghị giúp chúng tôi vượt biên, nhưng chỉ đi được có ba người. Vậy là chúng tôi lấy quyết định cho hai đứa lớn đi theo tôi. Chuyện này, chúng tôi giấu má tôi và mấy đứa nhỏ, kể cả hai đứa đã được chọn. Phần vì sợ đổ bể, phần vì sợ má tôi lo. Ai chẳng biết vượt biên là một sự liều lĩnh vô cùng. Rủi đi không thoát là bị tù đày chẳng biết ở đâu, may mà đi thoát cũng chưa chắt là sẽ đến bờ đến bến. Người ta nói trong số những người đi thoát, hai phần ba bị mất tích luôn. Thành ra, « vượt biên » là đi vào miền vô định …
Theo chương trình thì sáng sớm ngày rằm cha con tôi đi xe đò xuống Cần Thơ rồi từ đó có người rước qua sông ông Đốc để xuất hành ngay trong đêm đó. Tôi thắc mắc hỏi : « Tổ chức gì mà đi chui nhằm ngày rằm cha nội? ». Bạn tôi cười : « Ai cũng nghĩ như anh hết. Tụi Việt Cộng cũng vậy. Cho nên hể có trăng sáng là tụi nó nằm nhà nhậu, không đi tuần đi rỏn gì hết. Hiểu chưa ? »
Bữa nay là mười bốn ta nhằm ngày thứ bảy, vợ chồng tôi định không nói gì hết, chờ sáng sớm mai gọi hai đứa lớn dậy đi với tôi xuống Cần Thơ. Như vậy là chúng nó sẽ hiểu. Và như vậy là kín đáo nhứt, an toàn nhứt. Rồi sau đó vợ tôi sẽ liệu cách nhắn tin về cho má tôi hay. Chừng đó thì « sự đã rồi » …
Bây giờ thì má tôi đã có mặt ở đây, giấu cũng không được .Đành phải nói cho má tôi biết. Nhưng nói lúc nào đây ? Và nói làm sao đây ? Liệu má tôi có biết cho rằng tôi không còn con đường nào khác ? Liệu má tôi có chấp nhận cho tôi không giữ tròn đạo hiếu chỉ vì lo tương lai cho các con ? Liệu má tôi … liệu má tôi … Tôi phân vân tự đặt nhiều câu hỏi để chẳng thấy ở đâu câu trả lời …
Tôi ngồi xuống thềm nhà, nhìn ra sân. Ở đó, bờ cỏ lá gừng xanh mướt ngày xưa đã bị chúng tôi đào lên đấp thành luống để trồng chút đỉnh khoai mì, một ít khoai lan, vài hàng bắp. Không có bao nhiêu nhưng vẫn phải có. Cho nó giống với người ta, bởi vì nhà nào cũng phải « tăng gia » cho đúng « đường lối của nhà nước ». Thật ra, trồng trọt bao nhiêu đó, nếu có … trúng mùa đi nữa, thì cũng không đủ cho bầy con tôi « nhét kẻ răng » ! Vậy mà tên công an phường, trong một dịp ghé thăm, đã tấm tắc khen : « Anh chị công tác tốt đấy chứ. Tăng gia khá nhất khu phố đấy ! Các cháu tha hồ mà ăn ». Anh ta không biết rằng mấy nhà hàng xóm của tôi, muốn « tăng gia », họ đã phải đào cả sân xi-măng hoặc sân lót gạch, thì lấy gì để « làm tốt »?
Khi tôi trở vào nhà thì con út đang gãi lưng cho nội. Nó vén áo túi nội lên đến vai, để lộ cái lưng gầy nhom, cong cong và hai cái vú teo nhách. Tôi tự hỏi : « Lạ quá ! Chỉ có mình mình bú hồi đó mà sao làm teo vú nội đến như vậy được ? ». Rồi tôi bồi hồi cảm động khi nghĩ rằng chính hai cái núm đen đó đã nuôi tôi lớn lên với dòng sữa ấm, vậy mà chẳng bao giờ nghe má tôi kể lể công lao. Tôi cảm thấy thương má tôi vô cùng. Tôi len lén từ phía sau lòn tay măn vú má tôi một cái. Má tôi giựt mình, rút cổ lại :
- Đừng ! Nhột !Thằng chơi dại mậy !
Rồi má tôi cười văng cốt trầu. Con Ti la lên :
- Má ơi ! Coi ba măn vú nội nè !
Tôi cười hả hê thích thú. Trong khoảnh khắc thật ngắn ngủi đó, tôi bắt gặp lại những rung động nhẹ nhàng sung sướng khi tôi măn vú mẹ thuở tôi mới lên ba lên năm … Và cũng trong khoảnh khắc đó, tôi đã quên mất rằng má tôi đã gần tám mươi mà tôi thì trên đầu đã hai thứ tóc ! Và cũng quên mất rằng từ ngày mai trở đi, có thể tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại má tôi nữa, để măn vú khi bất chợt thấy má tôi nhờ cháu nội gãi lưng như hôm nay …
Chiều hôm đó, khi ngồi vào bàn ăn, mắt bầy con tôi sáng rỡ. Bữa cơm thật tươm tất, đầy đủ món ăn như khi xưa. Có gà nấu canh chua lá giang, một loại giây leo có vị chua thật ngọt ngào mà hình như chỉ ở miệt quê tôi mới có. Món này, bà nội mấy đứa nhỏ nấu thật đậm đà. Bà thường nói : « Canh chua phải nêm cho cứng cứng nó mới ngon ». Mà thật vậy. Tô canh nóng hổi, bốc lên mùi thơm đặc biệt của thịt gà lẫn với mùi chua ngọt của lá giang, mùi mặn đằm thấm của nước mắm và mùi tiêu mùi hành … Húp vào một miếng canh chua, phải nghe đầu lưỡi ngây ngây cứng cứng và chân tóc trên đầu tăng tăng, như vậy mới đúng. Nằm cạnh tô canh chua là tộ cá kèo kho tiêu mà khi mang đặt lên bàn ăn nó hãy còn sôi kêu lụp-bụp, bốc mùi thơm phức vừa mặn vừa nồng cay lại vừa béo, bỡi vì trong cá kho có tóp mỡ và trước khi bắt xuống, bà nội có cho vào một muỗng mỡ nước gọi là « để cho nó dằn » ! Đặc biệt, khi làm cá kèo, bà không mổ bụng cá, thành ra khi cắn vào đó, mật cá bể ra đăng đắng nhẹ nhàng làm tăng vị bùi của miếng cá lên gấp bội. Ngoài hai món chánh ra, còn một dĩa măng luộc, tuy là một món phụ nhưng cũng không kém phần hấp dẫn nhờ ở chỗ sau khi luộc rồi măng được chiên lại với tỏi nên ngã màu vàng sậm thật là đậm đà …
Sau khi và vài miếng, vợ tôi nhìn tôi rồi rớt nước mắt. Nội hỏi :
- Bộ cay hả ?
Vợ tôi “dạ”, tiếng “dạ” nằm đâu trong cổ. Rồi buông đũa, mếu máo chạy ra nhà sau. Tôi hiểu. Bữa cơm này là bữa cơm cuối cùng, bữa cơm mà cả gia đình còn xum họp bên nhau. Rồi sẽ không còn bữa cơm nào như vầy nữa. Gia đình sẽ chia hai. Những người đi, rồi sẽ sống hay chết ? Còn những người ở lại, ai biết sẽ còn tan tác đến đâu ? Tôi làm thinh, cắm đầu ăn lia lịa như mình đang đói lắm. Thật ra, tôi đang cần nuốt thật nhanh thật nhiều, mỗi một miếng nuốt phải thật đầy cổ họng … để đè xuống, nén xuống một cái gì đang trạo trực từ dưới dâng lên. Mắt tôi nhìn đồ ăn, nhìn chén cơm, nhìn đôi đũa, để khỏi phải nhìn má tôi hay nhìn bầy con, ngần đó khuôn mặt thân yêu mà có thể tôi sẽ vĩnh viễn không còn thấy lại nữa. Trong đầu tôi chợt hiện ra hình ảnh người đang hấp hối, trong giây phút cuối cùng lưỡi đã cứng đơ mắt đã dại, vậy mà họ vẫn nhìn nuối những người thương để rồi chảy nước mắt trước khi tắt thở. Rồi tôi thấy tôi cũng giống như người đang hấp hối, không phải chết ở thể xác mà là chết ở tâm hồn, cũng một lần vĩnh biệt, và cũng sẽ bước vào một cõi u-minh nào đó, một cõi thật mơ hồ mà mình không hình dung được, không chủ động được !
Má tôi gắp cho tôi một cái bụng cá to bằng ngón tay cái :
- Nè ! Ngon lắm ! Ăn đi ! Để rồi mai mốt hổng chắc gì có mà ăn !
Ý má tôi muốn nói rằng ở với Việt Cộng riết rồi đến loại cá kèo cũng sẽ khan hiếm như các loại cá khác. Nhưng trong trường hợp của tôi, lời má tôi nói lại có ý nghĩa của lời tống biệt. Nó giống như : ”Má cho con ăn lần này lần cuối. Ăn đi con ! Ăn cho ngon đi con !”. Tôi ngậm miếng cá mà nước mắt trào ra, không kềm lại được. Nếu không có mặt bầy con tôi, có lẽ tôi đã cầm lấy bàn tay của má tôi mà khóc, khóc thật tự do, khóc thật lớn, để vơi bớt nỗi thống khổ đã dằn vật tôi từ bao nhiêu lâu nay … Đằng này, tôi không làm như vậy được. Cho nên tôi trạo trực nuốt miếng cá mà cảm thấy như nó thật đầy xương xóc !
Má tôi nhìn tôi ngạc nhiên :
- Ủa ? Mày cũng bị cay nữa sao ?
Rồi bà chồm tới nhìn vào tộ cá. Các con tôi nhao nhao lên :
- Đâu có cay, nội.
- Con ăn đâu thấy cay. Hai có nghe cay hôn Hai ?
- Chắc ba má bị gì chớ cay đâu mà cay.
- Con ăn được mà nội. Có cay đâu ?
Các con tôi đâu có biết rằng cái cay của tôi không nằm trên đầu lưỡi, mà nó nằm trong đáy lòng. Cái cay đó cũng bắt trào nước mắt !
Tôi đặt chuyện, nói tránh đi :
- Hổm rày nóng trong mình, lưỡi của ba bị lở, nên ăn cái gì mặn nó rát.
Rồi tôi nhai thật chậm để có thời gian cho sự xúc động lắng xuống. Miếng cơm trong miệng nghe như là sạng sỏi, nuốt không trôi …
Sau bữa cơm, bà cháu kéo hết vào buồng tụi con gái để chuyện trò. Thỉnh thoảng nghe cười vang trong đó. Chen trong tiếng cười trong trẻo của các con, có tiếng cười khọt khọt của nội, tiếng cười mà miếng trầu đang nhai kềm lại trong cổ họng, vì sợ văng cốt trầu. Những thanh âm đó toát ra một sự vô tư, nhưng lại nghe đầy hạnh phúc. Lúc này, có nên nói chuyện vượt biên với má tôi hay không ? Tội nghiệp bầy con, tội nghiệp nội … Ngoài phòng khách, tôi đi tới đi lui suy nghĩ đắn đo. Vợ tôi còn lục đục sau bếp, và cho dù vợ tôi có mặt ở đây cũng không giúp gì tôi được với tâm sự rối bời như mớ bòng bong. Tôi bèn vào buồng ngủ, trải chiếu dưới gạch-từ lâu rồi, vợ chồng tôi không còn giường tủ gì hết- rồi tắt đèn nằm trong bóng tối, gác tay lên tráng mà thở dài …
Thời gian đi qua … Trăng đã lên nên tôi thấy cửa sổ được vẽ những lằn ngang song song trắng đục. Trong phòng bóng tối cũng lợt đi. Không còn nghe tiếng cười nói ở phòng bên và tôi nghĩ chắc đêm nay vợ tôi ngủ với hai đứa lớn ngoài phòng khách, để trằng trọc suốt đêm chờ sáng.
Bỗng cửa phòng tôi nhẹ mở, vừa đủ để tôi nhìn thấy bóng má tôi lom khom hướng vào trong hỏi nhỏ :
- Ba con Ti ngủ chưa vậy ?
Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng trả lời nho nhỏ vừa đủ nghe :
- Dạ chưa, má.
Má tôi bước vào đóng cửa lại, rồi mò mẫm ngồi xuống cạnh tôi, tay cầm quạt mo quạt nhè nhẹ lên mình tôi, nói :
- Coi bộ nực hả mậy ?
- Dạ. Nhưng rồi riết cũng quen, má à.
Tôi nói như vậy mà trong đầu nhớ lại hình ảnh tôi và thằng con trai hè hụi tháo gỡ mấy cây quạt trần để mang đi bán. Im lặng một lúc. Tay má tôi vẫn quạt đều.
Rồi má tôi hỏi:
- Tụi bây còn gì để bán nữ! ;a hông ?
- Dạ …
Tôi không biết trả lời làm sao nữa. Chiếc xe hơi bây giờ chỉ còn lại cái sườn, không ai chịu chở đi. Trong nhà bây giờ chỉ còn bộ bàn ăn, cái tủ thờ nhỏ và bộ xa-long mây “sứt căm gãy gọng”. Ngoài ra, trên tường có chân dung “Bác Hồ” dệt bằng lụa và nhiều “bằng khen”,”bằng lao động tiên tiến” … những thứ mà nhà nào cũng có hết, cho, chưa chắc gì có ai thèm lấy ! Bỗng tôi nhớ có một hôm tôi nói với bầy con tôi : ”Ba tự hào đã giữ tròn liêm sỉ từ mấy chục năm nay. Bây giờ, đổi lấy cái gì ăn cũng không được, đem ra chợ trời bán cũng chẳng có ai mua. Sao ba thấy thương các con và tội cho ba quá !”. Lúc đó, tôi tưởng tượng thấy tôi đứng ở chợ trời, dưới chân có tấm bảng đề “Bán cái liêm sỉ, loại chánh cống. Bảo đảm đã hai mươi năm chưa sứt mẻ”. Thật là khùng nhưng cũng thật là chua chát !
Nghe tôi “dạ” rồi nín luôn, má tôi hiểu, nên nói:
- Rồi mầy phải tính làm sao chớ chẳng lẽ cứ như vầy hoài à ? Tao thấy bầy tụi bây càng ngày càng trõm lơ, còn mầy thì cứ làm thinh tao rầu hết sức.
Má tôi ngừng một chút, có lẽ để lấy một quyết định :
- Tao xuống kỳ này, cốt ý là để nói hết cho mầy nghe. Tao già rồi, mai mốt cũng theo ông theo bà. Mày đừng lo cho tao. Lo cho bầy con mầy kìa. Chớ đừng vì tao mà bắt mấy đứa nhỏ phải hy sinh tương lai của tụi nó. Mầy liệu mà đi, đi ! Kiếm đường mà kéo bầy con mầy đi, đi ! Ở đây riết rồi chết cả chùm. Không chết trận trên Miên thì cũng chết khùng chết đói. Thà tụi bây đi để tao còn thấy chút đỉnh gì hy vọng mà sống thêm vài năm nữa. Mày hiểu hôn ?
Nghe má tôi nói, tôi rớt nước mắt. Chuyện mà bao lâu nay tôi không dám nói với má tôi thì bây giờ chính má tôi lại mở ngỏ khai nguồn. Và tôi thật xúc động với hình ảnh bà mẹ già phải đẩy đứa con duy nhứt đi vượt biên để vui mà sống với ít nhiều hy vọng ! Thật là ngược đời : có người mẹ nào lại muốn xa con ? Chỉ có ở chế độ xã hội chủ nghĩa mới xảy ra những chuyện “đổi đời” như vậy !
Tôi nắm bàn tay không cầm quạt của má tôi, lắc nhẹ :
- Má à ! Lâu nay con giấu má. Bây giờ má nói, con mới nói. Sáng sớm mai này, con và hai đứa lớn sẽ xuống Cần Thơ để vượt biên.
Tôi nghe tiếng cây quạt mo rơi xuống gạch. Rồi yên lặng. Một lúc lâu sau, má tôi mới nói :
- Vậy hà …
Tôi nghe có cái gì nghẹn ngang trong cổ. Tôi nuốt xuống mấy lần, rồi cố gắng nói :
- Con đi không biết sống hay chết. Con gởi má vợ con và ba đứa nhỏ, có bề gì xin má thương tụi nó …
Nói tới đó, tôi nghẹn ngào rồi òa lên khóc ngất. Tôi nghe có tiếng quạt phe phẩy lại, nhanh nhanh, và bàn tay má tôi vuốt tóc tôi liên tục giống như hồi nhỏ má tôi dỗ về tôi để tôi nín khóc.
Một lúc sau, má tôi nói :
- Thôi ngủ đi, để mai còn dậy sớm.
Rồi bước ra đóng nhẹ cửa lại. Sau đó, có tiếng chẹt diêm quẹt rồi một ánh sáng vàng vọt rung rinh lòn vào khuôn cửa, tôi biết má tôi vừa thắp đèn cầy trên bàn thờ. Tiếp theo là mùi khói nhang, chắc bà nội mấy đứa nhỏ đang cầu nguyện ngoài đó.
Tôi thở dài, quay mặt vào vách, nhắm mắt mà nghe chơi vơi, giống như đang nằm trong một cơn mộng …
Năm giờ sáng hôm sau, má tôi kêu tôi dậy đi. Hai con tôi đã sẵn sàng, mỗi đứa một túi nhỏ quần áo. Chúng nó không có vẻ gì ngạc nhiên hay xúc động hết. Có lẽ mẹ tụi nó đã gọi dậy từ ba bốn giờ sáng để giảng giải và chuẩn bị tinh thần. Riêng tôi, thật là trầm tĩnh. Nước mắt đêm qua đã giúp tôi lấy lại quân bình. Thật là mầu nhiệm !
Tôi vào buồng hôn nhẹ mấy đứa nhỏ đang ngủ say, xong ôm vợ tôi, ôm má tôi. Hai người thật là can đảm, không mảy may bịn rịn.
Tôi chỉ nói có mấy tiếng :
- Con đi nghe má !
Rồi bước ra khỏi cổng.
-oOo-
Lần đó, tôi đi thoát.
Rồi phải ba bốn năm sau, tôi mới chạy chọt được cho vợ con tôi rời Việt Nam sang sum họp với tôi ở Pháp. Má tôi ở lại một mình.
Mấy ngày đầu gặp lại nhau, vợ con tôi kể chuyện “bên nhà” cho tôi nghe, h&#! 7871;t c huyện này bắt qua chuyện nọ. Bà Nội được nhắc tới nhiều nhứt và những chuyện về bà nội được kể đi kể lại thường nhứt.
Tụi nó kể :
“Ba đi rồi, mấy bữa sau cơ quan chỗ ba làm việc cho người đến kiếm. Tụi con trốn trong buồng, để một mình nội ra. Nội nói rằng nội nhờ ba về Tây Ninh rước ông Tư xuống bởi vì trên đó đang bị Cao Miên pháo kích tơi bời, tới nay sao không thấy tin tức gì hết, không biết ba còn sống hay chết nữa. Nói rồi, nội khóc thật mùi-mẫn làm mấy cán bộ trong cơ quan tin thiệt, họ an ủi nội mấy câu rồi từ đó không thấy trở lại nữa”.
Rồi tụi nó kết câu chuyện với giọng đầy thán phục :
“Nội hay thiệt !”.
Nghe kể chuyện, tôi bồi hồi xúc động. Tôi biết lúc đó má tôi khóc thiệt chớ không phải giả khóc như các con tôi nghĩ. Bởi vì, trong hai trường hợp dù sự việc xảy ra có khác nhau, nhưng hoàn cảnh sau đó vẫn giống nhau y hệt. “Ba con Ti đi không biết sống hay chết” vẫn là câu hỏi lớn đè nặng tâm tư của má tôi. Bề ngoài má tôi làm ra vẻ bình tĩnh để an lòng con dâu và cháu nội, nhưng là một cái vỏ mỏng manh mà trong khi kể chuyện cho các cán bộ, nó đã có dịp bể tung ra cho ưu tư dâng đầy nước mắt …
“Rồi sau đó -tụi con tôi kể tiếp- nội ở lại nhà mình để chờ tin tức và cũng để ra tiếp chuyện hàng xóm và chánh quyền địa phương, chớ má thì ngày nào cũng đi chùa, còn tụi con nội sợ nói hé ra là mang họa cả đám. Lâu lâu, nội về Gò Dầu bán đồ rồi mua thịt thà đem xuống tiếp tế cho tụi con. Thấy nội già mà lên lên xuống xuống xe cộ cực nhọc quá, tụi con có can ngăn nhưng nội nói nội còn mạnh lắm, nội còn sống tới ngày con Ti lấy chồng nội mới chịu theo ông theo bà !”.
Tôi biết : má tôi là cây cau già - quá già, quá cỗi - nhưng vẫn cố bám lấy đất chỉ vì trên thân cây còn mấy dây trầu … Hình ảnh đó bỗng làm tôi ứa nước mắt. Thương má tôi và nhớ cả quê hương. Cái quê hương tuyệt đẹp của tôi mà Việt Cộng đã cướp mất. Cái quê hương mà trên đó tôi không còn quyền sống như ý mình muốn, phát biểu những gì mình nghĩ, ca tụng những gì mình thích. Ở đó, ở quê hương tôi, tôi còn bà mẹ già, bà mẹ tám mươi đã cắt ruột đuổi con đi, bỏ quê hương mà đi, để bà còn chút gì hy vọng sống thêm vài ba năm nữa ! Bây giờ, vợ con tôi cũng đã đi hết. Má tôi còn lại một mình. Thân cây cau giờ đã nhẵn dây trầu, thêm tuổi đời một nắng hai mưa. Tôi biết ! Má ơi ! Con biết : cây cau già bây giờ đang nhớ thắt thẻo mấy dây trầu non …
Theo lời các con tôi kể lại, hôm tiếp được điện tín của bạn tôi ở Pháp đánh về báo tin tôi và hai đứa lớn đã tới Mã Lai bình yên, cả nhà tưng bừng như hội. Tụi nó nói : “Nội vội vàng vào mặc áo rồi quì trước bàn thờ Phật gõ chuông liên hồi. Đã giấu không cho ai biết mà nội gõ chuông giống như báo tin vui cho hàng xóm!”
“Mấy hôm sau, bỗng có công-an phường lại nhà. Công an đến nhà là lúc nào cũng có chuyện gì đó cho nên nội có hơi lo. Thấy dạng tên công an ngoài ngõ, trong này nội niệm Phật để tự trấn an. Sau đó, nội cũng kể chuyện ba về Tây Ninh rồi nội kết rằng ba đã chết ở trên đó. Rồi nội khóc … ”
Mấy con tôi đâu biết rằng đối với má tôi, dù tôi còn sống, sống mà vĩnh viễn không bao giờ thấy lại nhau nữa thì cũng giống như là tôi đã chết.
“ Sau đó nội than không biết rồi sẽ ở với ai, rồi ai sẽ nuôi nội, bởi vì má buồn rầu đã bỏ nhà đi mất. Nghe vậy, tên công an vội vàng an ủi :
- Bà cụ đừng có lo ! Rồi chúng cháu sẽ đem bà cụ về ở với chúng cháu. Cứ yên chí !”. Sau khi tên công an ra về, nội vào buồng kể lại chuyện đó cho tụi con nghe, rồi nói : “Nội nghe thằng công an đòi đưa nội về nuôi mà nội muốn xỉu luôn ! Không phải vì cảm động mà vì sợ ! Ở với tụi nó, thà chết sướng hơn !”
Vợ con tôi được đi chánh thức nên hôm ra đi bạn bè thân quyến đến chia tay đầy nhà. Lúc mẹ con nó quì xuống lạy má tôi để giả biệt -hay đúng ra để vĩnh biệt- tất cả mọi người đều khóc. Đó là lần cuối cùng mà má tôi khóc với bầy cháu nội. Và tôi nghĩ rằng má tôi khóc mà không cần tìm hiểu tại sao mình khóc, chỉ thấy cần khóc cho nó hả, chỉ thấy càng khóc thân thể gầy còm càng nhẹ đi, làm như thịt da tan ra thành nước mắt, thứ nước thật nhiệm mầu mà Trời ban cho con người để nói lên tiếng nói đầy câm lặng.
Bầy bạn học của các con tôi đứng thành hai hàng dài, chuyền nước mắt cho nhau để tiễn đưa tụi nó ra xe ngoài ngõ. Tôi hình dung thấy những cặp mắt thơ ngây mọng đỏ nhìn các con tôi đi mà nửa hồn tê-dại, không biết thương cho bạn mình đi hay thương cho thân phận mình, người ở lại với đầy chua xót …
Mấy con tôi nói :
”Nội không theo ra phi trường. Nội ở nhà để gõ chuông cầu nguyện”.
-oOo-
Tôi làm việc ở Côte d'Ivoire ( Phi Châu ), cách xa vợ con bằng một lục địa, và cách xa mẹ tôi bằng nửa quả địa cầu. Những lúc buồn trống vắng, tôi hay ra một bãi hoang gần sở làm để ngồi nhìn biển cả. Mặt nước vuốt ve chân cát, tiếng sóng nhẹ nghe như thì thào … những thứ đó làm như chỉ dành cho riêng tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy như được dỗ về an ủi. Những lúc đó, sao tôi nhớ má tôi vô cùng. Trên đời này má tôi là người duy nhứt an ủi tôi từ thuở tôi còn ấu thơ cho đến khi trên đầu tôi đã hai thứ tóc. Ngay đến đêm cuối cùng trên quê hương, cũng chính trong vòng tay khẳng khiu của má tôi mà tôi khóc, khi gởi vợ gởi con … Lúc nào tôi cũng tìm thấy ở má tôi một tình thương thật rộng rãi bao la, thật vô cùng sâu đậm, giống như đại dương mà tôi đang nhìn trước mặt.
Bây giờ tôi hiểu tại sao tôi hay ra ngồi đây để nhìn biển cả …

tiểu tử

Thursday, September 13, 2007

BỨT BỔI BÌNH ĐIỀN - Trần Kiêm Đoàn

BỨT BỔI BÌNH ĐIỀN
Trần Kiêm Đoàn
Viết tặng hội “Gia Đình Bình Điền” vừa mới thành lập tại Bắc Cali.


- Anh được bà con trong tổ nhất trí bầu làm nhóm trưởng nhóm bứt bổi Bình Điền.
Ông tổ trưởng tổ dân phố xóm Đinh Công Tráng, công khai thông báo chức vụ mà tôi vừa “đắc cử” nhưng không nói ai bầu. Tôi chưa hề ứng cử vào chức vụ “bứt bổi”, vì từ ngày mẹ sinh ra, tôi chưa hề biết bứt bổi là mặt ngang mặt dọc như thế nào cả.
Sau ngày bị cho nghỉ dạy ra khỏi trường Đồng Khánh tôi hồi hộp đợi chờ số phận kế tiếp của mình nhưng “mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh”. Chờ mãi cho đến hôm qua tôi mới được tổ trưởng cho biết là tôi đã được “trên” trả về tổ dân phố để lao động sản xuất. Khu vực lao động sản xuất cho tổ dân phố của tôi là một nơi nào đó tại Bình Điền mà tôi chưa hề đặt chân đến. Trong tổ có gần chục gia đình. Nhưng phần lớn là công nhân viên Nhà Nước hay xã viên hợp tác xã. Đầu đường phía Nam là gia đình anh Lý Văn Nghiên, nhà giáo nhưng từng xông pha xuống đường trước 1975 nên nay được bố trí công tác văn nghệ quần chúng. Cuối đường phía Bắc là gia đình ông Khang lái xe vận tải vừa vào hợp tác xã. Nhiều gia đình trong tổ có chân trong các hợp tác xã tre mây, may mặc… nên sự vinh quang lao động sản xuất, tạo ra của cải vật chất sắn khoai cho xã hội lại giao cho những người dân phố chợ… chưa có sự mà cũng chẳng có nghiệp hoặc loại lỡ thầy, lỡ thợ, quen nắm viết, cầm phấn hơn là nắm cày, cầm cuốc như tôi.
Thời điểm người khôn của khó mà bị đuổi ra khỏi công sở thì có muốn vác bị gậy đi xin cũng kẹt đường. Loài người tiến bộ hơn loài vật vì biết che và biết khoe. Trước 1975, người ta đua nhau khoe giàu nó quý phái như thế nào thì những ngày sau 1975 đua nhau che của, khoe nghèo nó cao quý như thế ấy. Cho nên, được làm nhóm trưởng nhóm bứt bổi thì cũng vẫn còn vẻ vang trong thiên hạ đang hồi tranh nhau đi theo quỹ đạo vòng quay của thời thế rồi.
Ngày lực lượng các tổ dân phố phường Thuận Thành chúng tôi vác cuốc xẻng, dao rựa xuất quân lên Bình Điền lao động sản xuất, tôi mới khám phá ra rằng, tôi là cấp chỉ huy của 3 nhân vật. Ông Khàn bị bệnh suyển kinh niên nên có tên là Khàn Suyển. Ở trong xóm, ông Khàn nổi tiếng là hiền nhân nhưng không phải là quân tử nên ông thường dạy vợ tận tình bằng cách nói lui nói tới một câu danh ngôn bất hủ, rằng là: “Thấy chồng hiền xỏ chân vô mũi; thấy chồng dữ lủi thủi bỏ đi!” Sự thật phũ phàng là ông Khèn chưa bao giờ thưởng thức được vế thứ hai để làm cho bà Khàn “lủi thủi bỏ đi” cả. Có lẽ vì thế mà trông mũi ông có vẻ thông thoáng lớn khác thường: Vì bị xỏ chân hơi nhiều chăng? Nhân vật thứ hai là “Bảo Cận”. Viết tắt của Bảo cận thị chứ không phải bà con với Bảo Đại, Bảo Long. Nếu thu tóm cả thảy giang sơn thì Bảo cận cũng cân được hơn vài ba chục ký xương da. Nó bị cận nặng nhưng không bao giờ được làm trí thức đeo kính trắng vì quá nghèo, không tiền mua kính. Muốn xem cái gì nó phải đưa gần chạm mắt mũi mới thấy. Người đời tự hỏi, không biết đã có lần nào nó được xem nhan sắc người đẹp theo kiểu đưa giai nhân đến gần sát mũi như thế hay chưa? Nhân vật thứ ba là bà Đắt. Vì phát âm giọng Huế không phân biệt, nên người ta không biết bà tên thiệt là “Đắc” hay “Đắt”, nhưng dẫu tên nào thì bà cũng hầm hừ bất mãn nếu ai gọi bà ta là “mụ”! Bà là người lao động năng nỗ, nhưng lao động miệng thì xuất sắc hơn là lao động tay chân nên chưa có công ty nào dám mướn bà ấy cả. Cái quán cóc nước chè và bánh kẹo đầu kiệt của bà cũng phải dẹp vì khách hàng không có ai đỡ nổi mười thành công lực từ cái miệng xoen xoét rất cực kỳ xông xáo của bà.
Ấy thế mà chúng tôi lại thành một tổ hợp “tứ nhân bang” vô cùng ăn khớp. Vừa bước chân lên mảnh đất Bình Điền, tôi đang còn ngơ ngác trước cảnh cây cỏ hoang dã, ruộng đồi xanh tươi đầy hứa hẹn nhưng có vẻ như thiếu bàn tay người từ thuở khai thiên. Bà Đắc gọi tôi bằng “thầy” với giọng nể nang dành cho “kẻ sĩ” lỡ thời. Bà ta tỏ ra thông minh và cũng là người có cốt cách chỉ huy thiên phú. Với giọng nói khàn khàn đầy vẻ quyết đoán, bà ta nắm quyền tư lệnh từ hiệp mở màn và long trọng tuyên bố:
- Nói chuyện vô duyên… chớ làm vợ, làm chồng, làm ông, làm tớ chi cũng không khó bằng cái chuyện làm thầy. Học hành mới khó. Thầy mà học được rồi thì mần chi cũng được cả. Nhằm nhò chi ba cái chuyện bứt bổi tầm phơ ni mà lo cho mệt óc. Thầy cứ liệng quách đó cho tui lo rồi ngồi chơi nhổ râu cho khỏe.
Tôi hỏi “bứt bổi là làm gì”, bà Đắc liền giải thích:
- Bứt bổi là cắt cây lá nhỏ còn tươi như tràm, chổi, tranh, sim, móc, cây leo, cây bò… đủ thứ rồi dồn lại un đống để tủ hay làm phân xanh.
Phân xanh thì tôi còn hiểu được chứ “tủ” là gì tôi chưa biết nên hỏi. Bà Đắc trả lời:
- “Tủ” là rãi lên chỗ đất mới trồng để che nắng che mưa hay đậy cho chim chuột khỏi tới phá đó thầy nờ.
Làm xong phần nhập đề bà Đắc liền dõng dạc ra lệnh:
- Nghe tui phân công đây nì. Chú Khàn suyển bứt bổi. Thằng Bảo cận theo hốt rồi ôm về đây un thành một đống.
Thằng Bảo chớp chớp đôi mắt cận thị nặng, im lặng ra dáng chấp hành nghiêm chỉnh. Còn ông Khàn thì vẫn cố vùng lên lần chót hỏi lại:
- Rứa còn thím Đắc với thầy Đoàn làm chi?
Bà Đắc chưa kịp để lời ông Khàn ra khỏi miệng đã vội triệt đường cứu viện, nói kiểu làm đày:
- Chú bứt bổi thì cứ lo bứt đi. Còn việc tui, tui lo. Thầy Đoàn lãnh đạo thì lo lãnh đạo chớ không làm chi cả.
Ông Khàn e dè hỏi, giọng nhỏ lại:
- Lãnh đạo là không làm chi cả à ?
Bà Đắc chận lời, giọng đầy vẻ lý luận chính trị :
- Nì, chú Khàn coi chừng đó nghe. Lãnh đạo là lãnh đạo. Lãnh đạo y chang như thằng giữ trâu. Có khi mô con trâu dám hỏi là mầy đang làm gì trên lưng tao đó không, hả ?!
Ông Khàn suyễn chừng như nghe cái giọng đanh đá của bà Đắc mà chạnh lòng toát mồ hôi nhớ tới người vợ yêu dấu của mình đang làm người “lao động phụ” và có lẽ cũng đang nhớ người… “bứt bổi phu” đang xông pha đi vào nơi gió cát ở Bình Điền nầy. Càng nhớ vợ… chả hiền, ông Khàn càng bứt nhanh như máy. Thằng Bảo cận không buồn hay không thấy đường phân biệt cây lá loại gì, cứ hiên ngang quơ, quào, hốt gọn và mang về chất đống. Gặp cây cành gai nhọn nó chỉ dám la oai oái chút đỉnh rồi thôi.
Bà Đắc chắp tay sau đít, đi đi lại lại như tướng tư lệnh thị sát mặt trận. Tôi thì cứ tà tà “lãnh đạo” không biết làm gì. Ấy thế mà chẳng bao lâu, đống cây xanh đã chất cao thành đống đầy khí thế. Ông tổ trưởng đến thăm, thấy đống bổi từ đằng xa đã vội la lên:
- Bổi đạt quá chỉ tiêu rồi. Tôi sẽ báo cáo lên trên để tuyên dương cho thầy trưởng nhóm.
Bà Đắc tủm tỉm cười, rồi nói một cách đầy triết lý… nước lèo :
- Mấy thằng cha sợ vợ như ngựa có cương, được việc hơn mấy cha yên hùng hát bội đó thầy.
Tôi đang… lãnh đạo mà nghe mụ Đắt nói, tôi cũng hơi cảm thấy nhồn nhột như mình đang bị nhà đạo đức biết chuyện thâm cung bí sử mà buông lời mai mỉa.

***
Lao động vượt chỉ tiêu. Nghỉ sớm. Tôi đi xuống vùng thị tứ Bình Điền. Nhà ở và quán tranh gần nhau như muốn dựa vào nhau mà tránh gió. Đi trong nắng chiều Bình Điền, tôi có ý nghĩ ngồ ngộ rằng, cô đơn như lá tranh khô mà cũng được cái hạnh phúc cuối cùng nương nhau vừa bạn vừa bè làm mái chắn. Không tình cờ, nhưng khi nhìn trụ sở Uỷ Ban Nhân Dân thị xã Bình Điền, tôi cũng mường tượng ra thằng bạn cũ nghe nói đang làm sếp lớn ở đó. Lửng thửng đi quanh khu “thị tứ” với tâm trạng kẻ không nhà. Đi loanh quanh bỗng đâu lại tới ngay trụ sở văn phòng. Gặp lại Trần Kiên Nhẫn, thằng bạn học nối khố một thời nay đang làm chủ tịch thị xã, tôi không tránh được sự xúc động nhưng vẫn cố dửng dưng vì sợ cảnh “ai công hầu, ai khanh tướng…” Thế nhưng sự vồn vã ấm áp của nó làm tôi quên hết. Hắn vẫn là thằng ăn nói khôn khéo trong tương quan công việc, nhưng lại rất bạt mạng kỳ hồ với bạn bè thân thương:
- Thằng cù lần! Tự nhiên lù lù vác mặt lên chốn sơn lâm ni mà không nói chi cho tao biết trước cả.
Tôi chống chế một cách thiệt tình :
- Tao đi lên đây lao động sản xuất mắc mớ chi mà phải nhắn mi trước. Ê ! Mi nói chuyện với tao ở đây có “vấn đề” chi cho mi không hả ?
Nó cười tướng :
- Mi lên đây lao động chứ có phải lên đây ăn trộm sắn khoai đâu mà lo biển lo rào dữ rứa. Có quái gì quan trọng đâu mà mi phải nhắc.
Tôi dè dặt hơn :
- Tao sợ mất tiếng cho mầy chứ tao chừ chỉ còn mạng cùi, có chi để mất nữa mà lo.
Hắn cười cười ra dáng kiêu bạt :
- Mi làm tao thất vọng. Mi là thằng con trai Huế, hào khí ngất ngưởng một thời. Con trai Huế chẳng là cái quái chi cả nhưng hắn biết cười cợt trên sự mất còn trong khi thiên hạ cứ lo sốt vó trong thời buổi vàng thau lẫn lộn ni. Mầy mất cái chi ? Tao được cái chi, hả ?
- Nữa! Không lẽ chừ đến phiên mi lên lớp tao. Mầy làm chủ tịch, tao bị đuổi dạy phải đi lao động mà còn hỏi vớ vẩn kiểu đó cũng lạ đời.
- Rỡm dễ sợ! Lại đem thế đứng thế ngồi ra mà so mũi hơn thua nữa rồi. Ừ, mà thiệt tình vẫn có thằng coi tí chức vụ còm là cái mã để bám vào mà vênh váo với thiên hạ. Tao khác. Mầy còn mầy hay mầy đã đánh mất chính mầy mới là điều đáng nói.
Tôi im lặng. Nhìn nắng chiều Bình Điền mầu vàng xanh nhạt đang xuống bên kia đồi thật đẹp. Đẹp có sẵn từ mong manh hay mong manh tạo nên tâm lý đẹp. Tôi không biết nhưng lại chợt nghỉ đến đống bổi, ông Khàn, bà Đắc, Bảo cận và chính mình. Lịch sử đống bổi làm nên bởi bàn tay nứt nẻ của ông Khàn, bởi đôi mắt gần mù và thân hình còm cõi của Bảo Cận, bởi sự lém lỉnh quyết đoán của bà Đắc và rất có thể, bởi nguồn cảm xúc mơ hồ quanh một gã thầy giáo lỡ vận như tôi… và có thể bởi cả anh Trung tổ trưởng và những người khác nữa. Sự tương tác khi thấy được, khi khuất lấp nhưng cả một chuỗi sự việc từ đâu đó, dấy lên, kéo dài và tác động lên nhau thành những hiện thể hay tình thế ra ngoài ước định ban đầu. Tôi nhớ ý niệm “duyên khởi” của đạo Phật rồi tự cho mình tưởng tượng… vô duyên !
Tôi bước theo Nhẫn về khu nhà ở của hắn. Thấy tôi trầm ngâm bước đi, nó hỏi :
- Mi buồn ?
- Không !
- Cái miệng tía lia của mầy mô rồi ?
Tôi không trả lời mà hỏi lại nó :
- Làm chi tối nay ?
Nhẫn trả lời như đã sắp sẵn :
- Uống rượu tắc kè Bình Điền.
- Tắc kè ? Tắc kè là cái chi chi ?!
Nó đưa ngón tay lên miệng “suỵt” một tiếng và nói thì thào :
- Mi nghe chi không ?
- ?!
- Tiếng kêu “tắc kè” của loại kỳ nhông nhỏ đó mà. Người ta còn gọi giống kỳ nhông nhỏ này là tắc kè vì tiếng kêu của nó. Tắc kè ngâm rượu là sản phẩm độc chiêu của Bình Điền. Thức trắng đêm mà có uống rượu tắc kè vào là ngày mai không biết mệt.
Tôi chẳng phải là dân sành rượu nên chẳng có kinh nghiệm gì về rượu rắn, rượu nhung, rượu sinh vật trên rừng dưới biển gì cả. Nhưng đêm Bình Điền lộng gió cột chân chúng tôi trong căn lều của Nhẫn. Có thêm Lê Văn Ngưu, thằng bạn cùng lớp, nghe nói đang làm chủ trại bò hay giữ bò thuê trong trại bò Bình Điền tôi không rõ lắm, đã làm cho cuộc rượu tay ba ấm lên thành thú vị.
Cuộc rượu thâu đêm nói về con trai Huế. Con trai Huế trong thi ca, trong văn học nghệ thuật nói chung, trong học hành và trong chính trị. Sự so sánh khá thú vị về con trai Huế và con trai Giảng Võ chính hiệu Hà Nội. Đó là lớp người khá tài hoa nhưng trái tim cảm xúc thường lớn hơn ý chí quyết đoán nên trong chính trị thường “làm thầy cho những ông vua tương lai ; nói cho vua nghe mà không có ai được lên làm vua cả.” Ngưu nêu thắc mắc về những ông vua nhà Nguyễn, xuất thân cũng là những chàng trai xứ Huế thì sao. Nhẫn nhận xét từ thái tử Đởm (vua Minh Mạng) trở về sau đều là những người được “ra” làm vua, nghĩa là được thế lực đằng sau đưa ra chứ không phải tự mình đứng lên chiến đấu, tranh hùng mà có.
Ba đứa chuyền quả bóng “con trai Huế” quanh các nhân vật có tiếng tăm một thời của Huế. Tấm lòng yêu nước lãng mạn thường đưa đến lãng mạn chính trị. Cái dễ thương của lãng mạn chính trị là lúc lên đường với một trời mơ ước; nhưng cái dễ ghét là khi lãng mạn biến thành hiện thực và tự cho là mơ ước đã thành công thì quả cầu ngũ sắc lại từ từ xì hơi. Người con trai Huế vẫn một đời đi hoài như con ngựa chiến mãi miết chạy quanh chiến trường xưa nay đã thành đồng cỏ.
Trời hừng sáng. Ngưu kết luận và hỏi Nhẫn :
- Lãng mạn chính trị rất gần với ảo tưởng. Rứa thì ảo tưởng có làm cho người ta hạnh phúc không ?
Nhẫn cười mũi, trả lời :
- Mi phải hỏi trước rằng, thế nào là hạnh phúc và hạnh phúc đối với người nầy có phải là hạnh phúc đối với người kia không cái đã? Bà già tao cho cuộc sống bếp núc là hạnh phúc; mà ông già thì cho là bất hạnh. Trong khi ông già cho những bài thơ của ông làm ra là nguồn hạnh phúc; mà bà già lại thấy thơ thẩn còn vô dụng hơn là những tiếng ếch nhái kêu ngoài bụi tre… thì cũng chẳng có ai sai, ai đúng.
Tôi trưng cầu ý kiến cả hai :
- Vậy thì cả hai đứa bây cho rằng yêu nước lãng mạn và lãng mạn chính trị là hạnh phúc hay bất hạnh.
Thằng Ngưu không nói gì. Có lẽ nó đang nghĩ đến bầy bò sắp được lùa đi ăn sáng. Và cũng có lẽ thằng Nhẫn đang nghĩ đến xấp hồ sơ kiện cáo chưa duyệt nên trả lời :
- Yêu nước lãng mạn chắc chắn là hạnh phúc. Còn lãng mạn chính trị thì hạnh phúc hay bất hạnh thì tùy người, tùy cảnh.
- Với mi thì sao ?
Tôi hỏi gọn và nó cũng trả lời gọn :
- Cả hai !
Thằng Ngưu trả bài thu hoạch :
- Tao cho rằng, hết thảy những thằng con trai Huế lãng mạn kiểu nào rồi cũng sướng. Bằng chứng là cuối đời gã nào cũng thành nghệ sĩ theo kiểu riêng của hắn. Viết lách lai rai, làm thơ ướt át, vẽ vời hứng khởi, hát hỏng tiêu dao, ngâm thơ cạn chén hay im lặng tràn trề… mà không thấy tay mô điên cả.
Có tiếng mụ Đắc kêu ông Khàn đi bứt bổi. Nắng lên. Ba đứa chia tay. Nhìn thẩu rượu tắc kè đã cạn. Ba thằng ôm nhau từ giã và cùng cười. Hình như không có thằng nào mệt sau một đêm trắng nói chuyện đời mình như nói chuyện đời ai bên thẩu rượu tắc kè.

Napa, đầu thu Cali – chưa đi đã nhớ – 2007
Trần Kiêm Đoàn

Tuesday, September 11, 2007

Tâm thức Việt trên đất Mỹ--Lê Đình Phương


Lịch sử khốn khó và hào hùng của dân tôi, đâu cần chứng nghiệm bằng những lời rao giảng cao xa! Chẳng vậy mà chỉ qua một buổi chiều xem tranh Việt ở nhà BS Đỗ, bóng dáng tiền nhân tôi bao đời giũ cỏ, lật đá, dệt vải, ngâm thơ, đánh giặc, ru con… suốt bốn ngàn năm nhọc nhằn, đã làm tim tôi bỗng ngập tràn sự thành kính và lòng ngưỡng vọng sâu xa về tâm linh và cội nguồn bất diệt của dân tộc.

Chẳng biết vì sao, hay chắc tại cung Di tử vi tôi có Nữ thần tự do chiếu mạng nên những chuyến đi dài dằng dặc đến Mỹ đều hướng đến bờ Đông: Florida với khu La Tampa tuyệt vời sang trọng, Boston với mùa thu vàng huyền hoặc, Washington với hoa đào nở như chốn bồng lai…Bờ Đông lạnh giá của Hiệp chủng quốc Hoa kỳ, cổ xưa và đầy thắng tích, dường như khác hẳn bờ Tây đầy nắng ấm, phồn hoa, náo nhiệt như vẫn thường thấy trên các phim ảnh Hollywood. Ứơc ao đến bờ Tây rồi cũng thành, khi cuộc họp thường niên của Hội Gan mật Mỹ năm nay được tổ chức ở San Francisco. Thích nhé!
Cái sự “đáng phàn nàn” của Cựu Kim Sơn (?)
Đến San Francisco sau chuyến bay đăng đẳng 18 giờ, lang thang mò mẫm một tuần, tôi nhanh chóng hiểu được câu nói đầy tiếc nuối của Rudyard Kipling: “San Francisco chỉ có một điều duy nhất đáng phàn nàn, là nơi chốn này thật khó rời xa!” Quả đúng như vậy, vì San Francisco quả tình là đẹp, hoa lệ theo cái đẹp đa chủng, đa văn hóa của nước Mỹ. Nơi đây, bạn thấy được dinh thự đền đài theo kiểu Tây Ban Nha, bạn lặng lẽ thả bước dạo quanh khu vườn Nhật tuyệt đẹp, quà tặng của thị trưởng Osaka dành cho thành phố, bạn háo hức rảo quanh cung Nghệ thuật Golden Gate xây theo kiểu Athens Hy lạp. Và thoắt một cái, bạn lạc bước xuống phố Tàu theo chuyến cable car đặc trưng của miền Viễn Tây Hoa kỳ, mũi bạn lại phập phồng vì mùi chiên xào, “Wan-ton mee” (mì Quảng đông) rất đỗi “Ba Tàu”, trong khi mắt lại hấp háy vì màu đỏ Trung Hoa giăng mắc mọi nơi trên nền trời xanh ngắt Cựu Kim Sơn…Thành phố đầy sắc màu và đa chủng, náo nhiệt và tấp nập, ồn ả đan xen thanh tĩnh, “sang” xen lẫn với “sến”, thấp cao chập chùng trên những triền đồi…Đó là San Francisco khi tôi đến vào một ngày tháng 11. Cái đẹp đầy sắc màu, sản phẩm của một nền văn hóa đa chủng, đa sắc tộc thật khó mà cảm nhận được hết, huống hồ là kể lại trong một vài dòng ngắn ngủi.
Đừơng thiên lý đến Las VegasĐiều in đậm trong ký ức tôi là chuyến đi xuyên sa mạc Nevada với một người bạn cũ thân thiết mới gặp lại sau 25 năm xa cách. Rời San Diego, L. chở tôi dọc theo một đường cao tốc xuyên tiểu bang với tốc độ 80 dặm một giờ. Vậy mà cũng mất 6 tiếng mới đến nơi. Quả thực, nước Mỹ có quyền tự hào về hệ thống xa lộ cực tốt của mình. Làm sao giữa một vùng sa mạc khô cằn khắc nghiệt, người ta có thể kiến tạo lên một con đường hun hút, mà xe chạy mòn bánh, “chó chạy cong đuôi” cũng chỉ thấy hai bên đường là núi và xương rồng, không một bóng người hay nhà cửa. Những ngọn núi nhấp nhô, đủ hình thù mà ánh nắng xiên khoai càng làm nổi bật những hình khối đậm nhạt thật kỳ lạ, làm cho không thể không nhớ tới viên mục sư trong một truyện ngắn của Somerset Maugham nằm mơ thấy núi Nevada mà liên tưởng đến bộ ngực đàn bà (?). Hay những bụi xương rồng sa mạc, lẻ loi, đơn độc ngả bóng lên nền trời xanh thẳm, y chang như những ký ức tuổi thơ về chàng Dzăng gô và mọi da đỏ mà tuổi thơ tôi vẫn thường dấm dúi đọc trong những năm tiểu học. Sa mạc không một bóng người, chỉ có con đường thiên lý, cắt một nhát khi thẳng tắp khi quanh co, xẻ núi xuyên đồi đến tận chân trời. Lạy Cao tiên sinh thứ lỗi, nếu người có dịp đi xa lộ xuyên bang như tôi, chắc người sẽ cảm khái ngâm ngợi: “Freeway như kiếm dựng trời xanh”! chứ chẳng chơi. Cái nhân tạo, dù là một con đường xa lộ phẳng phiu cực tốt, được đặt giữa đất trời bao la, cũng có cái kỳ vĩ và giá trị mỹ học của riêng nó.
Rồi tôi cũng đến được Las Vegas chói lòa đầy ánh sáng, trong những ngày kỷ niệm 100 năm thành phố này mọc lên sừng sững giữa sa mạc. Quả tình ai đó nói không sai, chưa đến Las Vegas, một thành phố rặt Mỹ, chưa thấy được cái hoa lệ tột cùng của nước Mỹ. Trời ạ, Las Vegas là nơi mà bao nhiêu sáng tạo thông minh của con người đều được tập trung để khuyến khích người ta tiêu tiền, ăn chơi, nhậu nhẹt, bài bạc thỏa thích mà không hề tiếc rẻ đồng tiền mình đã bỏ ra. Nghệ thuật câu khách của công nghệ giải trí kiểu Mỹ ở Las Vegas quả thật đã đến mức siêu đẳng.
Giải trí kiểu Mỹ là vậy, chu đáo và tận tình hết chỗ chê. Cẩn thận đến độ trong sòng bạc cũng có máy phá rung tim (defribrillator), để sẵn sàng cấp cứu những con bạc muốn chầu trời vì vỡ tim sau hồi đỏ đen. Chu đáo đến độ cạnh sòng bạc cũng có nguyện đường, chắc để các em trúng mánh tạ ơn Trời Phật cho được bạc. Tận tình đến độ có luôn cả một phức hợp trông trẻ với đủ thứ trò chơi, cung cấp cả máy nhắn tin thông báo mỗi 15 phút con mình đang “làm gì, ở đâu, với ai” để cho các bậc phụ huynh khả kính tha hồ đỏ đen. Thích nhé, vì “cả nhà ta, cùng vui” mặc dù… không “bên nhau” như lời bài hát mà mấy em nhi đồng bên nhà thường nghêu ngao!
Không chỉ là nơi hưởng thụ dành cho quí ông, Las Vegas còn có những boyshow mà diễn viên là những chàng trai đủ màu da, mặt đẹp như ngọc mà thân hình thì như Hercules tái thế. Chẳng biết mấy quí mỹ nam tử này diễn trò gì trong cái show dành riêng cho quí bà quí cô thưởng lãm? Nhưng đứng quan sát đám đông toàn phụ nữ ùa ra, nhí nhố, hể hả, đầy mãn nguyện và khoái hoạt sau show diễn, nhìn mặt em nào cũng thấy câu “mẹ ơi con muốn lấy chồng”(?). Rõ khổ cho tôi là gã tò mò quan sát mà không nhịn được tiếng cười khùng khục muốn bể cả đan điền!
Người ta đến Las Vegas không chỉ để đánh bạc! Las Vegas, thành phố tội lỗi (sinful city) theo chính cách gọi của người Mỹ, đang chuyển mình để “lành mạnh hóa” hình ảnh của chốn ăn chơi này. Ngày tôi đến, Las Vegas có những sự kiện mà ngay cả New York hay Boston phải ganh tị. Show diễn “A new day” của Celine Dion, ảo thuật của David Copperfield bằng xương bằng thịt, liveshow của Paul McCarney lãng tử của ban Beatle huyền thoại…Đó là chưa kể đến cuộc triển lãm tranh của trường phái ấn tượng từ Corot đến Van Gogh. Ngạc nhiên chưa, đừng có chê Las Vegas là đất đỏ đen nữa nhé, người ta cũng đầy tính nghệ thuật như ai chứ bộ.
Không nghệ thuật sao được, khi cả một nền công nghiệp giải trí khổng lồ như Las Vegas, chỉ nhằm một mục tiêu là khuyến khích người ta tiêu tiền và quên hết mọi sự chết tiệt trên đời. Vì nó quả thật đáng đồng tiền như cái show diễn tuyệt diệu của đoàn xiếc lừng danh Cirque du Soleil. Mặc dù được bạn hào hiệp chiêu đãi, tôi vẫn không khỏi giật mình khi biết giá vé trên trời. Nhưng quả thật danh bất hư truyền, vì trong 2 tiếng đồng hồ, những vũ công thượng thặng của Cirque du Soleil đã giúp cho tôi hiểu thêm về cái ranh giới rõ ràng giữa cái đẹp của ngôn ngữ hình thể và sự khiêu dâm thô thiển. Bằng ánh sáng, nước, lửa, đu dây, âm nhạc…tất cả trong một chuyện kể đầy bí ẩn và mê hoặc về những cung bậc của tình yêu, sự thăng hoa của những phút giây luyến ái ngây ngất và đầy biểu cảm, được khắc họa một cách sống động và đẹp đến thót tim. Một bản tụng ca tình yêu bằng âm nhạc và ánh sáng, bằng hình thể và vũ đạo, gợi cảm và hồi hộp (sexy and thrilling) như một bỉnh bút của New York Times bình luận thực không quá lời. Mà không “đã”, không hay sao được, vì vũ công của Cirque du Soleil là dân ba lê Liên xô cũ lưu lạc qua đây, cộng thêm sự chăm chút thần sầu của kỹ thuật âm thanh ánh sáng tuyệt chiêu. Không hay sao được?

Las Vegas là vậy! Một thành phố Mỹ 100% mà không nơi nào có được. Đến Las Vegas, đừng nghĩ đến những khám phá về tính chất hợp chủng về văn hóa như ở San Francisco, hay tìm kiếm những giây phút “hoa xoan rụng sau hè” hay “ngoài kia sân nở một cành mai”. Las Vegas là đèn màu nhấp nháy thâu đêm, là những phức hợp ăn chơi tráng lệ ngang tầm cung điện vua chúa châu Âu, là những sòng bài mịt mùi khói thuốc với hàng vạn con người, là những bữa tiệc mà bao nhiêu món ngon vật lạ trên đời đều có mặt…Las Vegas rặt Mỹ đến độ chỉ trong 2 ngày ngắn ngủi lọt thỏm trong biển ngừơi mênh mông, kẻ lang thang da vàng là tôi bắt đầu lờ mờ cảm nhận được cái shock của sự dị biệt kinh khủng về văn hóa, thấy được cái khoảng cách mênh mông giữa quê hương tôi “mẹ già cuốc đất trồng khoai” với cái thế giới ngựa xe như nước với bao cuộc vui thâu đêm suốt sáng như Las Vegas.

Ngược dòng về tâm thức Việt
Làm sao văn hóa Việt, bản sắc Việt không bị đè bẹp và có thể trừơng tồn trên đất Mỹ, nơi đã sản sinh một nền văn hóa giải trí đầy thực dụng như Las Vegas được?
Vậy mà có đấy! Tôi tìm được câu trả lời trong một bữa ăn tối với gia đình BS Đỗ, một người Việt định cư ở Mỹ đã 30 năm. Căn nhà với phiên bản trống đồng trên vách, bụi chuối khóm tre trong góc phòng, tranh tố nữ…cộng với sự lịch lãm và hiếu khách đầy chất Á đông của chủ nhà làm cho tôi nhẹ lòng. Cái nhẹ lòng ấm áp của hai chữ đồng bào trên đất khách, của câu chuyện về cái bọc trăm trứng của dân tộc Việt. Không ấm lòng sao được khi biết được trên đất Mỹ bao la, vợ chồng bác sĩ Đỗ vẫn âm thầm nuôi dưỡng nền văn hiến Việt cho các con cái sinh ra trên đất Mỹ của mình. Không chỉ bằng ngôn ngữ Việt, mà bằng lịch sử ngàn năm của quê hương qua những tập sách Tôi yêu quê tôi, được gia chủ biên soạn công phu, in ấn đẹp, trang nhã. Xa quê, vợ chồng bác sĩ Đỗ bày tỏ lòng thương nguồn nhớ cội không chỉ qua những điều trông thấy, mà qua những điều cảm thấy bằng những truyện tranh, giản dị và cảm động về cổ tích Việt nam, như một lời tự tình (recitatif) thầm lặng hướng đến quê hương rất gần gũi, mà cũng rất đỗi xa xăm bên kia bờ Thái bình dương.
Lòng thương nhớ quê cha đất tổ của cha mẹ qua những trang sử, truyện cổ Việt nam bằng song ngữ Anh Việt đã nảy mầm trong Linh Đan, con gái của BS Đỗ. Sinh ra ở Mỹ, học trường Mỹ, nói tiếng Mỹ, và có thể…, suy nghĩ cũng như Mỹ, chưa một lần đặt chân đến Việt nam. Vậy mà cô sinh viên ngành Kiến trúc của Đại học Texas có thể viết được những dòng thật giản dị nhưng không kém phần minh triết về cái mà ta vẫn thường gọi bằng một cụm từ to tát là “hội nhập văn hóa”:
"Khi chúng tôi còn nhỏ, lúc nào cha mẹ chúng tôi cũng nhắc đến văn hóa VN.
Thường vào những buổi sáng thứ bảy, mẹ tôi dạy các chị em chúng tôi học địa lý VN và học về các anh hùng và anh thư nước Việt. Khi chúng tôi lớn lên, mẹ tôi dạy thêm Hán-Việt, thơ văn và dịch Anh-Việt Việt-Anh.
Buổi tối, cha mẹ chúng tôi kể chuyện cổ tích cho chúng tôi khi chúng tôi vào giường ngủ.
Vì mẹ tôi viết sách về văn hóa VN, ca dao và tục ngữ thành ra thông dụng trong đời sống hằng ngày của chúng tôi. Bố chúng tôi say mê nghệ thuật và những hình ảnh về VN làm cho chúng tôi cũng bị ảnh hưởng theo. Những hình ảnh về danh lam thắng cảnh, đền đài, dinh thự và cổ vật VN đã in sâu trong tâm trí chúng tôi.
Bây giờ, khi tôi đi Đại học, tôi mới nhận ra là chúng tôi đã được may mắn có cha mẹ ham mê tìm hiểu văn hóa VN và truyền dạy lại cho chúng tôi. Tôi thấy càng ngày tôi càng thích văn hóa VN nhiều hơn. Tôi muốn sống theo những giá trị truyền thống của tổ tiên đã để lại, làm những món ăn VN, đọc về lịch sử và phong tục VN. Tất cả những gì liên hệ đến VN đều làm cho tôi cảm thấy thân thiết với một di sản, một đất nước và dân tộc VN - mặc dù tôi sinh ra và lớn lên ở Hoa Kỳ.
Văn hóa và những giá trị truyền thống không những không lỗi thời mà vẫn còn thích hợp với đời sống tân tiến tại Hoa Kỳ. Tôi tin tưởng một sự hiểu biết sâu xa về văn hoá và những giá trị truyền thống có thể làm phong phú đời sống hiện đại của chúng ta rất nhiều"

Vậy đó, chẳng vậy mà tôi đã kinh ngạc và thán phục biết bao khi nhìn bức tranh minh họa truyện con Rồng cháu Tiên mà Linh Đan vẽ minh họa cho cuốn sách của mẹ mình. Như những nông dân Việt nam bao đời cần cù gieo hạt, chăm bón cho mảnh đất thân yêu của mình, hạt mầm văn hóa Việt mà vợ chồng BS Đỗ vun xới trong lòng con cái trên đất Mỹ đã đơm hoa qua nét vẽ còn mang nét trẻ thơ, bằng trí tưởng tượng của các con mình về một nơi chôn nhau cắt rốn, thật gần gũi mà cũng rất đỗi xa xôi. Lịch sử khốn khó và hào hùng của dân tôi, đâu cần chứng nghiệm bằng những lời rao giảng cao xa! Chẳng vậy mà chỉ qua một buổi chiều xem tranh Việt ở nhà BS Đỗ, bóng dáng tiền nhân tôi giũ cỏ, lật đá, dệt vải, ngâm thơ, đánh giặc, ru con… suốt bốn ngàn năm nhọc nhằn, đã làm tim tôi bỗng ngập tràn sự thành kính và lòng ngưỡng vọng sâu xa về tâm linh và cội nguồn bất diệt của dân tộc.

Huyền sử Việt không thiếu nỗi chia xa, đến nỗi chuyện Lạc Long Quân - mẹ Âu Cơ trăm trứng với cuộc chia con lên rừng xuống biển cũng có thể được kiến giải như một cuộc ly dị, hay ly tán đầu tiên của dân tộc Việt. Đúng sai thế nào chẳng biết, chỉ biết rằng ngàn năm sau kể từ thuở Việt Thường, lữ khách đi qua nước Mỹ trong một chiều đông là tôi, nhìn mẹ Âu Cơ qua nét vẽ Linh Đan, tự dưng thấy lòng dâng lên những điều sâu thẳm lạ lùng, không tài nào nói được nên lời. Tổ tiên tôi ly tán để khai sơn phá thạch mở mang bờ cõi, dù cái giá là sự chia ly nhưng chưa hề rẽ đàn tan nghé. Tôi đây, ngược dòng thời gian làm khách viễn du bên dòng Hồng hà cuồn cuộn phù sa, nhìn dòng nước thời gian mang con dân Việt bập bềnh lưu lạc muôn phương. Dòng máu rồng tiên vào thuở hồng hoang ấy, có ai ngờ phiêu bạt qua mãi bên kia bờ Thái bình bao la. Làm sao nói được nên lời sự kinh ngạc và thán phục khi thấy dân tôi máu đỏ đầu đen, vẫn vừa âm thầm nhẫn nại mưu sinh, vừa nuôi dưỡng vun đắp cội nguồn trên đất khách? Làm sao dòng chảy lịch sử khúc khuỷu và chông gai của dân tôi, khi rẽ nhánh vào Hiệp chủng quốc Hoa kỳ, lại không bị tan biến, đồng nhất trong cái biển đa chủng mênh mông đó? Vì sự dung nạp văn hóa (cultural tolerance) của nước sở tại, hay lớn lao hơn, vì cội rễ tâm linh của dân tôi bất diệt tự bao đời? Tôi, cái trứng trong bọc trăm con, nhỏ nhoi trôi đi trôi lại giữa hai bờ Đại dương, tự dưng thấy vang lên trong lòng một ca khúc hướng đạo của Thẩm Oánh ngày nào, tưởng như dòng nhạc ấy chưa bao giờ xưa cũ:
“Nhà Việt nam, Nam Bắc Trung chung lòng Á đông,
Bốn nghìn năm đó, vang tiếng xây biết bao kỳ công
Ngừơi Việt nam, Nam Bắc Trung chung lòng…“
Coming home, về nhà thôi…..
Ăn cơm Việt, nói tiếng Việt, nghe chuyện cố tích Việt ở nhà BS Đỗ lại làm nhớ quê nhà ghê gớm. Nhớ quán phở ám khói thân quen với cô bán hàng có ánh mắt của một người mẹ khi nhìn thực khách ăn uống ngon lành, nhớ quán cafe góc phố với anh xe ôm rổn rảng, nhớ góc piano bar mù mịt mưa bay với bạn bè thân thiết mỗi đêm, nhớ bao bệnh nhân đang trông ngóng tôi về...Cho tôi xin đủ cafe Starbucks, nói lời tạm biệt Mc Donald, vẫy tay chào Cirque du Soleil...Vì tôi nhớ nhà rồi! Về nhà thôi, giã biệt Las Vegas, San Francisco, Houston, San Diego, Los Angeles...những địa danh trước-lạ-sau-quen nơi đất khách. Về nhà thôi, với hai câu thơ tự trào của ai đó tự dưng bật ra khỏi đầu trong những phút chờ đợi ở sân bay Los Angeles:
“Giang hồ gì ta giang hồ vặt,
Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà”

Coming home, về nhà thôi…..

Sài gòn, một chiều cuối năm
BS Lê Đình Phương,
BV Pháp Việt

Friday, August 31, 2007

Góp Nhặt Cát Đá (Trên Các Blóg)


Thơ con cóc
Lớp hậu sinh
nhiều người không biết làm thơ tình
nên chỉ “nhái” thơ tiền bối,
nhưng hồn yêu
thì chắc chắn không kém phần cuồng nhiệt! Hãy lắng nghe:

Nếu như em ngại gió
Anh nguyện làm bức tường
Ðứng chắn giữa giáo đường
Cho em tôi cầu nguyện!

Giả như em lắm chuyện
Nói ra rả cả ngày
Anh cãi cối cãi chày
Nói gì mà lắm thế!

Giả như em mà ế
Anh cũng thành trai già
Gái ế với trai già
Cùng một nhà, quá tốt!

Không may mà em... dốt
Anh nguyện làm ông thầy
Cũng chẳng chóng thì chầy
Thầy biến thành "thầy nó"!

Giả như em sợ chó
Anh nguyện làm cây riềng
Chó mà gặp phải riềng
Thành “cầy tơ rựa mận”!

Giả như em có cận
Thì anh cũng mắt lồi
Hễ gặp nhau trên đồi
Ta đồng thời... bỏ kính!

Nếu em học tài chính
Anh sẽ học ngân hàng
Nhà chúng mình màu vàng
Hai nhóc... thêm nhóc nữa!

Khi mà em có chửa
Là anh sẽ ở nhà
Luôn ở bên em mà
Dù bạn anh có... nhậu!

Quả từ hoa mà đậu
Con chúng mình từ em
Anh cũng chỉ góp thêm
Cho gia đình hạnh phúc!

Khi nào anh lên chức
Sẽ mua đất xây nhà
Trồng trước cửa vườn hoa
Phía sau là bãi tắm!

Nếu mà em có nấm
Anh mua thuốc DEP về
Cho em tắm thỏa thê
Đến khi nào hết bệnh!

Trời hóa em là mận
Anh nguyện làm cây đào
Chúng mình mọc cầu ao
Rồi cùng nhau thề nguyện!

Nếu đêm nào mất điện
Anh ngồi quạt cho em
Sau mỗi tối êm đềm
Tình nồng càng thắm đượm!

Chuyện thường ngày ở huyện
Là lúc mình gần nhau
Hễ ngồi cạnh em lâu
Anh lại... mơ cô khác!

Nếu như em yêu nhạc
Anh xin làm cái đài
Ðể lúc em nằm dài
Luôn có anh bên cạnh!

Nếu em mà cô quạnh
Anh sẽ ở gần em
Như là bấc với đèn
Hòa trong nhau bừng sáng!

Khi mà em đến… tháng
Là lúc anh phải chiều
May mà chẳng có nhiều
Tháng vài ba ngày lẻ!

Bây giờ anh còn trẻ
Nên chưa có đủ tiền
Để anh tậu con thuyền
Cùng em đi khắp chốn!

Chúng mình còn thiếu thốn
Chúng mình chẳng phải giầu
Nhưng mà có sao đâu
Em vẫn là tất cả!

Anh là con trai cả
Em, dâu lớn trong nhà
Cùng phụng dưỡng mẹ cha
Cả nhà vui sớm tối!

Saturday, August 11, 2007

Ken Chong cho Con (Pham Thanh Chau)


Ở xứ Mỹ nầy, thời đại văn minh mà nói chuyện cha mẹ kén chồng cho con thì nghe lạ tai. Vậy mà chuyện đó lại xảy ra. Chẳng phải ông bà giàu có, sợ gặp thằng rễ đào mỏ, mà cũng chẳng phải cô gái thuộc loại ngây thơ, e thẹn, kín cổng cao tường không dám tiếp xúc với ai. Sự thực, cô đã trên ba mươi. Cô cũng xông xáo vào xã hội để kiếm sống, cũng nói năng giao thiệp rộng rãi. Cô lại đẹp nữa. Vậy mà gặp cậu nào còn độc thân là ông bà vui vẻ mời ghé nhà. Chẳng thấy ai quí khách bằng ông bà, nhưng sau đó, hình như không đạt tiêu chuẩn nào đó, ông bà lại mời chàng khác ghé thăm, chuyện vãn. Những chuyện trên hắn chỉ nghe trong cộng đồng người Việt bàn tán thế thôi. Ông bố cô gái, hắn biết, vì trước bảy lăm, hắn là nhân viên dưới quyền ông. Cả đến cô gái, hắn cũng biết nữa, nhưng hiện nay những tiêu chuẩn chọn khách đông sàng của ông bà thì ai cũng mù tịt. Đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi, chống cộng? Tất cả chỉ là giả thiết. Sở dĩ thêm tiêu chuẩn chống cọng vào đây vì trong các cuộc mít - ting của người Việt đòi nhân quyền, tự do cho đồng bào trong nước, ông bà đều dẫn cô gái theo. Để tăng cường sức mạnh cho cộng đồng hay để ông bà chọn anh chàng nào tố cộng hăng say? Hay để cho cô dễ tìm chồng giữa chốn ba quân? Tất cả vẫn còn trong vòng bí mật. Có một điều là bọn con trai, từ mới lớn cho đến sồn sồn đều suýt soa là cô quá đẹp. Dẹp dịu dàng, quí phái, thấy cô chỉ muốn ngắm mãi rồi thở dài vì biết mình không hy vọng gì.

Xin dài dòng về những điều hắn biết về ông bà và cô gái.

Năm 1973 hắn tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, được bổ về làm phó quận một tỉnh miền Trung. Lúc đó ông ta là đại tá tỉnh trưởng. Trong thời gian làm việc ở quận, thỉnh thoảng hắn phải về tỉnh họp. Hắn thấy ông có một phong thái rất đặc biệt. Ông như một ông vua con với bá quan. Thân mật nhưng có khoảng cách rõ ràng. Ông hết lòng với dân nhưng phục vụ dân như một thiên mệnh hơn là bổn phận, tưởng như chức tỉnh trưởng do trời ban cho chứ không phải do tổng thống bổ nhiệm, đúng ra ông giống như “ngài quận công” em ruột “đương kim hoàng đế” ngày xưa vậy. Chẳng bao giờ ông giữ kẻ điều gì. Ông muốn là làm. Có một chuyện thực. Một lần ông báo sẽ ra quận thanh tra. Tay quận trưởng cùng đoàn tùy tùng trong đó có cả hắn ra bãi đáp nghênh đón. Trực thăng hạ xuống, ông đứng yên vài phút cho tay quận trưởng trình diện, xong ông lẵng lặng đi quanh hàng rào phòng thủ quận chi khu. Ông đi trước, phía sau là phái đoàn rồng rắn đi lòng vòng qua các giao thông hào, ụ súng, vọng gác. Đột nhiên tay quận trưởng lùi lại, ra dấu cho tất cả cùng lùi lại, yên lặng. Trời ạ! Ông đứng tè ở góc vọng gác. Chuyện nầy – chỉ có sai về thời gian thôi- kẻ nào sáng tác, nói láo, sẽ bị trời đánh.
Ông có một thói quen buồn cười mà ai cũng bàn tán. Khi làm việc ở tòa Hành Chánh tỉnh, ông thường đến các ty phòng nội thuộc. Vừa nói mấy câu là ông vỗ vỗ túi áo rồi hỏi “Có thuốc không?” Ai cũng biết trước nên thủ sẵn một gói thuốc ông thường hút, đưa ra, ông lại hỏi “Có quẹt không?” Đưa quẹt cho ông, mồi thuốc xong, ông bỏ tất cả vào túi áo mình rồi đi nơi khác. Có điều lạ là không ai biết ông vất thuốc với quẹt ở đâu mà ngay sau đó chính ông tìm cũng không ra, rồi lại hỏi “Có thuốc không?” Mà chẳng phải ông nghiện thuốc, chỉ bặp bặp vài hơi là cắm điếu thuốc xuống cái gạt tàn, nói mấy câu, lại mồi thuốc, hút tiếp, lại dụi bỏ. Ngồi họp mà có ông là hắn được cái thú đếm xem ông hút bao nhiêu điếu thuốc trong buổi họp. Đến ngày mất nước, ông không bỏ chạy, ông đi tù. Lúc ở trại cải tạo Long Thành hắn có gặp ông. Vẫn vẻ phong lưu, bất cần thiên hạ nên trông ông chẳng mất phong độ gì cả. Sau đó ông được đày ra Bắc. Chẳng biết bao lâu, cuộc đời dâu bể… Khi hắn qua Mỹ, ở Virginia, tình cờ gặp ông một lần. Chuyện nầy hồi sau sẽ rõ.

Còn chuyện hắn biết cô gái út của ông cũng có nguyên do. Năm đó, gần đến Tết, tay thiếu tá quận trưởng của hắn ngồi than thở là Tết nhất mà không có quà cáp cho xếp thì thật khó coi. Hắn ta rầu rỉ bảo.
- Nhưng trong túi moa tài sản chừng mươi nghìn, biết mua cái gì bây giờ? Một cành mai thì chắc có đứa đem đến rồi, mà thứ mai chấm trần nhà kia, tiền đâu chịu thấu. Một cặp bông hồng hay vạn thọ thì hẻo quá!
-
Hắn đề nghị mua một món đồ cổ, chẳng ai biết trị giá của nó nhưng trông đã đẹp lại quí. Thế là hắn được giao nhiệm vụ đó. Hắn đến tiệm đồ cổ, chỗ chân cầu Gia Hội mua một cái tô, không biết cổ thực hay giả, lơn tơn đến dinh tỉnh trưởng. Ông đại tá không có nhà, chỉ có cô gái út ra tiếp. Cô mới mười lăm, mười sáu mà đẹp kỳ lạ. Cô học trường Đồng Khánh, từ dinh tỉnh trưởng, nơi cô ở, cô chỉ đi mấy phút là đến trường. Hắn ngồi tán tỉnh tía lia, đáng lẽ để cái tô lại, nhưng hắn ôm về, hẹn với em hôm sau đến nữa. Dĩ nhiên hắn đến vào giờ công vụ thì làm sao ông bố có nhà. Thế là hắn và em nói chuyện sa đà, đến chiều hắn lại ôm cái tô về. Sở dĩ hắn đến được nhiều lần như thế là vì hắn về thuật lại với tay quận trưởng. Tay chịu chơi nầy sai tài xế lấy xe jeep đưa hắn đến dinh tỉnh trưởng. Thấy xe quận quen thuộc, tay gác cổng không thắc mắc gì. Tuy nhiên một lần ông tỉnh trưởng về sớm.

- Moa nghe mấy bữa nay toa cứ ôm cái tô vô ra đây mãi. Rứa là đủ rồi hỉ! Chờ ít năm, con út Mai lớn chút nữa, lúc đó mỗi lần đến đây, toa cứ nộp một cái tô, cái dĩa cổ chi đó là được. Moa hứa với toa nhưng không bảo đảm gì cả nghe!

Dù sao thì em cũng đã cho hắn hôn em một lần và cả hai cũng có tặng hình cho nhau gọi là “Để kỷ niệm những ngày mới quen nhau” Hình em mặc váy đầm, tóc thắc bím, ôm búp bê. Hình hắn tặng em là cảnh hắn đứng vênh mặt trước trường Hành Chánh, chụp hôm tốt nghiệp, coi rất bảnh trai. Sau tấm hình hắn ghi cho em một câu đúng điệu nhạc vàng “Anh hứa yêu em suốt một đời”.

Đáng lẽ chuyện tình của hắn với em còn dài, nhưng sau đó sập tiệm. Hắn đi tù, ông bố em cũng đi tù. Em như cánh chim giữa cơn bão, phiêu bạt về phương trời nào hắn không rõ. Hình em tặng hắn cũng đánh mất từ lâu. Cho đến khi nghe chuyện ông bà kén chồng cho em, hắn vẫn không hình dung được em ra sao, vì lâu quá, nhưng vẫn nhớ là em rất đẹp. Và nếu trước kia, đứng trước em hắn tự tin bao nhiêu thì nay hắn không dám gặp cả em nữa vì mặc cảm tự ti. Ra tù, thân tàn ma dại, qua xứ Mỹ hắn cũng chẳng hơn gì con gà mắc mưa, hắn đứng bán Mc Donald!

Cho đến một sáng chủ nhật, hắn ghé tiệm chạp phô mua ít vật thực. Vừa ra khỏi xe hắn thấy một chiếc xe nhỏ chạy trước, xe cảnh sát chớp đèn chạy sau. Hai xe ngừng lại trước tiệm chạp phô. Tay cảnh sát xuống xe đến hỏi thăm sức khỏe người lái xe, có lẽ vi phạm giao thông gì đó. Hóa ra đó là ông bà đại tá tỉnh trưởng của hắn ngày trước. Hắn thấy tay cảnh sát Mỹ xì xồ mấy câu nhưng ông vẫn tỉnh bơ, chẳng nói năng một tiếng, cứ ngồi nhìn tay cảnh sát như người xem TV nhìn cái quảng cáo. Không vui, không buồn, không sợ, không xun xoe… và cứ trơ ra như thế. Có lẽ tay cảnh sát tưởng ông bà không biết tiếng Mỹ nên đến nhờ hắn thông dịch. Hắn nói.

- Sorry! He Chinese, me Vietnamese, no talk, no hear!
-
Anh ta chán cả hắn nên lắc đầu, lên xe bỏ đi. Lúc đó ông mới nhìn hắn cười chúm chím rồi hai ông bà vô tiệm. Hắn có thể đến chào hỏi, tự giới thiệu để chuyện trò nhưng kẹt vì biết ông bà đang kén rễ nên hắn nghĩ tốt hơn đừng để họ tưởng mình có ý đồ gì. Nghe nói có mấy tên bác sĩ, kỷ sư đẹp trai, đi xe đắc tiền còn bị loại, sá gì đến hắn mà đèo bòng nên hắn phe lờ. Trong lúc hắn đứng trước quày đồ khô thì ông ta đến bảo.

- Toa thấy moa có nhanh trí không, làm rứa là hắn chịu thua, mình khỏi bị ticket.

- Tôi thấy đại tá mới biết cách đó. Cái khó là giữ vẻ mặt sao cho tay cảnh sát vừa chán nản vừa thông cảm mới được. Tôi mà làm thế, hắn còng tay ngay.
-
Ông ta ngạc nhiên.

- Ủa, sao toa biết moa?
Lúc đó hắn mới bảo là hắn có làm phó quận trong lúc ông làm tỉnh trưởng. Thế là cả hai vui vẻ chuyện trò. Lát sau bà vợ ông ta đến, sau khi giới thiệu nhau, họ đã trở nên thân mật. Đàn bà đều giống nhau, thích tò mò chuyện đời tư người khác.

- Chớ vợ con mô mà đi chợ một mình?

Tôi chẳng có vợ con gì cả. Như lúc nãy ông đại tá biết, tôi ra trường năm bảy ba, đến năm bảy lăm sập tiệm. Tôi đi tù về, không ai thèm nhìn, đến khi có vụ HO thì chẳng hề quen biết mà cũng có người kêu gã con cho, tôi chán quá, không thèm lấy vợ nữa.
-
Ông ta xen vào.
- Moa mà như toa đi chợ chi cho mệt. Ghé tiệm, quán ăn nào đó, ăn xong trả tiền, khỏi chợ búa phiền phức.
- Nhưng tôi còn bà mẹ, mọi khi tôi đưa bà cụ đi chợ, mấy hôm nay bà cụ mệt, dặn tôi mua các thứ về bà cụ nấu.

Chuyện trò đến đấy thì hắn xin cáo từ, ông bà có mời hắn ghé nhà, cho số nhà, số điện thoại đàng hoàng. Hắn không có thì giờ thăm viếng linh tinh, vả lại tuổi tác chênh lệch mà gia cảnh cũng không thích hợp nên hắn quên luôn. Bẵng đi một thời gian, một sáng chủ nhật, đi chợ, hắn lại gặp ông bà. Họ coi bộ mừng rỡ lắm, nhất định mời hắn ghé thăm nhà, uống trà nói chuyện cho vui. Nể tình, hắn theo họ về nhà. Đó là một căn apartment, chẳng giàu sang gì, nhưng cách bài trí sắp xếp trong nhà ra người phong nhã, trí thức. Lúc ngồi ở phòng khách, cô gái út của ông bà có pha trà mời hắn. Hắn không dám nhìn sợ bất nhã, nhưng thoáng thấy, hắn nhận ra ngay cô bé ngày xưa và cô vẫn đẹp, còn đậm đà hơn trước nữa. Thực ra hắn biết thân phận mình nên dững dưng.

Sáng hôm đó, ông bà nghe hắn nói lại những nhận xét, cảm tưởng của hắn lúc ông ta làm tỉnh trưởng, họ cười như chưa bao giờ vui đến thế. Dĩ nhiên hắn chẳng dại gì nhắc đến chuyện hắn tán tỉnh cô út của ông bà, coi nham nhở quá, vả lại cô ta mà nghe được, ghét hắn ra mặt thì chẳng vui gì.

Những lần sau đó, ông bà có gọi điện thoại mời hắn đến uống trà trò chuyện. Hắn không thích nhưng có cô gái út ra mời khách, nghe mấy tiếng “Mời chú ạ!” ngọt như đường và tuy chỉ thấy có hai bàn tay mà hắn đã vấn vương người đẹp rồi. Một lần nhân chủ nhà vô ý, hắn nhìn quanh tìm cô ta thì y như là cô đang làm gì đó ngay tầm mắt hắn. Lúc đó cô đăm đăm nhìn lại hắn và tặng hắn một nụ cười. Hắn chới với, ngất ngây như say rượu. Cả tuần lễ sau, hình ảnh người đẹp cứ ở mãi trong đầu hắn.

Nhưng hắn đã lớn, lại ở tù ra nên chín chắn chuyện đời chứ không bộp chộp như mấy cậu thanh niên. Giá như hắn tốt nghiệp đại học Mỹ, có job thơm, hắn đã đường hoàng nhào vô một cách tự tin. Về ngoại giao thì hắn đã có chút cảm tình của ông bà rồi, đối với cô ta, nếu không mặc cảm hắn đâu có khù khờ, ú ớ như bây giờ. Thế nên tim hắn rung động nhưng đầu óc hắn tỉnh táo. Hắn dặn lòng “Yêu thì cứ yêu cho đời có chút hương vị, nhưng chớ dại mà biểu lộ cho người ta biết, chắc chắn bị từ chối, lại rước thêm cái xấu hổ vào thân, nhớ nhé!” Có câu hát “Khi cố quên lại càng nhớ thêm” hắn thì khác, hể cố quên là hắn quên bẵng. Hắn lại hay nản chí, thấy chẳng hy vọng gì nên cứ lơ là dần.

Cho đến một buổi sáng, hắn nghe điện thoại reo.
- Thưa chú, ba mạ cháu mời chú qua uống trà.
Các cô gái Huế mà pha giọng miền Nam nói chuyện thì nghe như chim hót, ngọt ngào, ngây thơ không thể tả. Hắn giả giọng Huế hỏi lại.
- Ba mạ cháu ở mô rứa?
- Dạ, ở nhà.
- Còn cháu ở mô?
- Dạ, cũng ở nhà.
- Rứa là biết rồi đó. Cám ơn cháu, chú qua ngay bây chừ.
Hắn phân vân, tại sao ông bố không gọi mà để cô gái gọi hắn? Khi hắn đến, mọi việc vẫn như trước, người đẹp ra mời trà, rồi chuyện trên trời, dưới đất. Đến khi giả từ ông bà lại hỏi.
- Bà cụ có mạnh khỏe không?
- Dạ, cám ơn. Những người lớn tuổi không bịnh nầy thì bịnh kia.

Hắn tố thêm một đòn về gia cảnh của hắn.

- Tôi đi làm không đủ tiêu, bà cụ phải giữ trẻ cho người ta.Tôi thật xấu hổ, không nuôi nổi mẹ.
Tưởng ông bà sẽ dội ngược không ngờ lại hỏi địa chỉ và bảo sẽ đến thăm. Kể dài dòng chỉ tổ mất thì giờ. Đại khái họ đến thăm lúc hắn đi làm. Mẹ hắn chất phác nên gần như ông bà nắm vững gia phả và đời tư của thắn. Theo mẹ hắn kể, ông bà cứ suýt soa rằng hắn có hiếu, họ rất quí trọng những người con có hiếu.

Ông bà cũng nói về gia đình họ, về cô út đã lớn mà không chịu lấy chồng. Cứ bảo sợ gặp người không tốt, bỏ cha mẹ già không ai săn sóc tội nghiệp. Mẹ hắn vừa kể vừa cười coi bộ hắn lọt mắt xanh của gia đình kia rồi. Hắn không nói gì, sợ mẹ buồn, nhưng hắn bắt đầu nghi ngờ về thái độ của họ. Họ có điên mới đem gã cô út xinh đẹp như hoa cho một thằng không ra gì như hắn. Còn cô út nếu bằng lòng thì thần kinh cũng không hơn gì bố mẹ. Nhưng rõ ràng họ đã lộ ý rồi. Hắn đánh cờ tướng loại khá, khi đối phương đi một nước cờ, nếu không hiểu mục đích của nước cờ đó, tuyệt đối hắn không tấn công. Hắn bắt đầu đưa giả thiết, nhưng không giả thiết nào đứng vững.

Thế nên hắn rút quân về thủ bằng cách báo với họ ý định sẽ đi tiểu bang khác làm ăn, ở đây sống khó khăn quá (Hắn chuẩn bị đi thực). Xong hắn chờ đối phương đi nước thứ hai.

Hôm đó, thứ bảy đầu năm, cộng đồng Việt Nam có lệ chào quốc kỳ trước chợ Eden. Tối thứ sáu, đi làm về, hắn được điện thoại của mẹ cô gái gọi.

- Sáng mai Tuấn có đi chào cờ ngoài Eden không?
- Dạ cháu cũng chưa có ý định, phải đưa bà cụ đi chợ, e trễ mất.
- Tuấn cố gắng đưa bác và em Mai ra Eden sáng mai lúc chín rưỡi. Xe của em bị hư, còn ba nó phải ra sớm, chuẩn bị trước cho buổi lễ.
- Dạ, cháu sẽ cố gắng đưa bác và cô Mai ra đúng giờ.

Nước cờ đến đây đã rõ mục đích. Họ đẩy cây xe ngon lành đến trước miệng con chốt, nhưng nguyên nhân vẫn còn trong vòng bí mật. Ông bố đã lùi một bước để bà mẹ đứng ra đạo diễn, rủi thất bại cũng giữ được tướng an toàn.

Sáng đó, thấy hắn ăn mặc tươm tất, mẹ hắn lại cười. Đàn bà nhạy cảm chuyện nầy lắm, huống gì đó là một bà mẹ. Bà biết hắn đã yêu cô gái. Chính hắn cũng không hiểu mình yêu cô ta từ lúc nào. Tình yêu không đến trực tiếp từ cô gái mà đi vòng từ bố mẹ cô ta. Hắn không cần biết nguyên nhân, nhưng sự sắp xếp của họ khiến hắn cảm động và hắn tin chắc rằng sự sốt sắng đó đã được thúc đẩy từ cô gái cưng của họ. Nhưng hắn với cô ta đâu có tình ý nhau bao giờ?

Đến nơi hắn để hai mẹ con vào đứng với đồng bào. Hắn thối thác chào quốc kỳ. Khi mới đặt chân lên đất Mỹ, lần đầu thấy lại lá cờ vàng ba sọc đỏ, hắn đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ. Ngày Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, hắn cũng khóc cả buổi mà không hiểu sao lòng mình tan nát đến như vậy. Ngày đầu tiên cắp sách đến trường, hắn đã chào cờ, hát quốc ca... .

Tình yêu nước đến lặng lẽ trong tim hắn theo thời gian như tình yêu thương mẹ, khi mất nước, mất mẹ mới thấy mình bơ vơ. Thế nên hắn chỉ sợ mọi người thấy hắn khóc khi nghe bài quốc ca. Một lý do nữa là hắn nghĩ “Đứng cạnh cô thì thích quá rồi, nhưng rủi cô xích ra xa hoặc bỏ đi chỗ khác thì có nước độn thổ mới hết nhục” “Thấy người ta tử tế tưởng bở” Hắn yêu cô, ông bà tử tế với hắn nhưng chuyện cô yêu lại hắn là viễn vông, vô căn cứ. Cho nên khi nghe hắn bảo sợ bị xúc động khi chào cờ phải đi tránh chỗ khác, bà mẹ thông cảm nhưng cô gái xụ mặt lại.

Thấy cô như giận, hắn mừng trong bụng, muốn đổi ý nhưng đã lỡ rồi nên đành lãng ra, vào một tiệm sách tìm đọc vớ vẫn nhưng hồn vía để cả ngoài kia, lòng tự trách “Chào quốc kỳ chảy nước mắt có gì mắc cỡ. Dễ gì được đứng gần người đẹp. Dại quá! Biết bao giờ mới có dịp như thế nầy” Nghe chào cờ xong, hắn đi ra, định cà rà theo nói chuyện với cô ta nhưng mẹ cô lại nhờ hắn đưa bà về sớm, còn cô gái thì ở lại với bố.

Hắn đành vâng lời. Về đến nhà, bà mẹ lại bảo hắn vô nhà nhờ chút chuyện. Hắn lại vâng lời. Hắn ngồi ở phòng khách. Chẳng cần rào đón, sau khi hỏi hắn sẽ đi tiểu bang nào, ngày nào đi, đột nhiên bà vào thẳng vấn đề. Bà nói về cô út hiếu thảo của bà không chịu vượt biên, ở lại với mẹ, vất vả, tần tảo để thăm nuôi bố. Qua xứ Mỹ, nói gì cô cũng không chịu lấy chồng, sợ bỏ cha mẹ già không ai săn sóc. Cô ra điều kiện chỉ lấy người có hiếu với cha mẹ thôi. Nay thấy hắn thương mẹ cô đồng ý ngay. Hắn nghe mà tưởng mình mơ. Đời nay mà có cha mẹ hạ mình năn nỉ gã con gái xinh đẹp, nết na cho một thằng chẳng ra gì như hắn!?.Hắn biết ông bà sốt ruột thật vì cô gái đã lớn mà cứ ở vậy, nhưng lý do chữ hiếu hình như là cái cớ thôi, chứ nguyên nhân nội vụ thì chưa rõ. Thế nên hắn xin phép bà được gặp riêng cô Mai để nói chuyện thông cảm nhau trước khi hắn nhận ân sủng đó. Bà mẹ chịu liền.

Thế rồi một buổi chiều, hắn đến gõ cửa, cô ra mở cửa. Cô chào hắn mà không cười, vẻ mặt nghiêm trang, nhưng hắn nhận được từ đôi mắt cô những tia nhìn như reo vui.
- Chào chú ạ!
- Chú đến thăm Mai.
- Dạ, mời chú vào.

Cô lùi lại, hắn bước vào, cô gần như đứng sát bên hắn. Cô mặc một bộ đồ lụa trắng, hơi rộng nên trông thước tha. Mặt cô bầu bỉnh, có đánh chút phấn hồng, mắt đen nhánh. Vì cô thấp hơn hắn nên khi cô ngước nhìn, đôi mắt cô đẹp hết sức, vừa long lanh vừa như ngạc nhiên đều gì.

- Có ông bà cụ ở nhà không?
- Dạ không, mời chú ngồi.
Cô ngồi đối diện. Cô rót nước trà rồi mở hộp bánh ra,
- Mời chú!


Hắn cầm tách trà lên nhấm nháp rồi làm bộ suýt soa như bị nóng lắm. Bấy giờ cô mới cười.
- Trà còn nóng, cháu vừa mới pha.
Hắn cầm tách trà nửa chừng và nhìn cô. Cô cúi mặt xuống. Chúa ơi! Cô đẹp thế kia, trong trắng thế kia sao lại chịu đi bên cạnh cuộc đời bầm dập của hắn được? Thật khó tin!

- Mai biết vì sao chú đến thăm Mai không?
- Dạ không.
- Thế mạ có nói chuyện nầy không?
- Dạ có.

Không khí như căng thẳng, hắn phải sửa giọng nhẹ nhàng hơn.

- Chú xin lỗi làm Mai bối rối. Bây giờ chú đề nghị thế nầy, mình kể chuyện linh tinh gì đó cho vui.
- Dạ.
- Trước hết chú kể chuyện của chú cho Mai nghe. Chú học hành chánh ra trường làm phó quận được hơn một năm thì đi tù sáu năm. Ra tù chú làm đủ nghề đạp xích lô, bán vé số... Qua đây chú đi chùi nhà rồi bán Mc Donald. Kể ra thời đi học có vui chút đỉnh, đi làm cũng vui nhưng sau đó chán ngấy, hết đi tù thì làm những nghề mạt hạng.

Cô vẫn cúi đầu và nói.
- Chú thử lập gia đình, sẽ hết buồn ngay.
- Không đơn giản như Mai tưởng đâu. Muốn tiến đến hôn nhân phải có tình yêu. Vì có yêu người ta mình mới chịu đựng được những va chạm, khó khăn khi sống với nhau. Cho nên phải cẩn thận khi lập gia đình. Không yêu thà sống một mình còn hơn.

Cô ngước lên, nhìn thẳng vào mắt hắn.
- Chú đã lập gia đình và đã thất bại, đã tan vỡ rồi phải không?
- Chú chưa lập gia đình, vì chú có yêu ai đâu.
- Cháu không tin, tuổi chú mà chưa yêu ai, cháu không tin.
- Chú cũng không tin cả mình nữa. Có người có biết bao nhiêu mối tình, nhưng chú thì chẳng có gì. Khi đi làm có yêu chút đỉnh, nhưng sau đó chẳng còn nhớ nhau nữa. Nước mất, nhà tan vui thú gì mà yêu với đương.

- Chú tính xem đã yêu bao nhiêu người và bây giờ còn nhớ người nào?
- Trước kia cũng có quen một cô, cũng anh anh, em em vài câu, nhưng chỉ khoảng vài tuần. Cô ấy có cho chú hôn một lần trên trán. Rồi nước mất tình cũng mất luôn. Cô ấy đã quên hẵn chú rồi. Lâu quá rồi! Thế Mai có mối tình nào lâm ly kể cho chú nghe với.

- Chuyện của cháu cũng chẳng lâm ly gì. Lúc đó cháu mới lớn, có yêu một anh, rồi cũng như chú, khi mất nước, quá khổ, tâm trí đâu mà yêu ai.
- Nghe nói sau bảy lăm, Mai không vượt biên, ở lại Việt Nam với mạ kiếm tiền thăm nuôi ba trong tù.
- Lúc lộn xộn, trước ngày đầu hàng, mạ cháu bán được căn nhà. Hú vía, nếu trễ mấy ngày là bị chúng vô tịch thu rồi. Nhờ thế mấy chị của cháu mới có tiền vượt biên, nhưng sau đó thì nghèo lắm. Cháu với mạ cháu phải ra đường bán quần áo cũ, bị công an rượt chạy muốn chết.

Kể đến đấy cô lại cười, thật hồn nhiên. Hắn biết cô đã hết bối rối rồi.
- Có lẽ cũng giống như chú, sau đó không nhớ nhau, không gặp nhau, không nghĩ đến nhau nữa. Thế là xù! Phải không?
- Đâu có như chu, gì cũng quên. Mấy năm sau đó, cháu biết được anh ấy cũng ở Sài Gòn, cháu đến thăm mấy lần.
- Gặp nhau mừng mừng, tủi tủi, kể lễ tâm sự nhớ thương nhau. Chà, mùi dữ!
- Ảnh không biết cháu, ảnh không nhớ ra cháu, cháu cũng không nhắc nữa. Thật bực mình, người đâu mau quên.
- Chỉ cần nhắc vài câu là anh ta nhớ ra ngay.

Gần cả chục năm, biết đâu anh ấy đã lập gia đình thì sao?! Nên cháu chỉ đi ngang qua, nhìn cho đỡ nhớ mà không nói chuyện bao giờ. Đến khi dọ hỏi được biết là anh ấy còn độc thân thì tìm không ra. Anh ấy đã đi HO rồi.
Rồi cô thở dài.
- Bây giờ cháu cũng còn bực. Tức muốn chết được!

- Chú biết rồi, vì thế nên Mai giận đời, định đón một chiếc xe hoa nào đó, leo đại lên cho đỡ cô đơn chứ gì?
- Cháu cũng muốn thế cho bỏ ghét, nhưng cháu yêu anh ấy...Rồi lại giận anh ấy, thấy cháu rõ ràng mà không thèm nhìn.

- Để chú đoán có đúng không nghe. Đó là một chàng sĩ quan Đa Lạt đẹp trai, hào hoa, làm dưới quyền ông cụ. Anh ta gặp cô nữ sinh đẹp quá, hai người yêu nhau. Theo chú có lẽ anh chàng cũng ở tù mút mùa như bọn chú. Nhưng sau khi ra tù, nhờ gia đình khá giả, anh ta đi buôn loại mánh mung như thuốc tây, trầm, vàng chẳng hạn. Nghề nầy mau giàu lắm. Anh ta đi xe dream, hút thuốc có cán. Lúc đó Mai ngồi bên đường với mạ bán quần áo cũ nên mặc cảm không nhìn mặt. Còn anh ta vì lâu quá nên quên người đẹp thuở nào, vả lại khi có tiền thì bao người đẹp khác chạy theo, phải không?

- Chú đoán đúng một phần. Anh ấy cũng đi cải tạo, nhưng sau về nghèo lắm. Bán vé số ở Sài Gòn

- Chú cũng từng bán vé số, cứ nói tên, nói chỗ anh chàng hành nghề là chú biết ngay.
Cô cười bí mật.

- Đố chú biết đó! Anh ấy bán vé số chỗ nhà thờ Đức Bà, trước Bộ Xã Hội cũ.
- Chú có ngồi đó chú biết rõ. Có phải đại úy Minh, thiếu tá Tuấn, trung úy Đại... Cũng không phải luôn. Chú chịu. Nhưng những người đó đều có gia đình cả rồi mà.
Hắn nhìn đồng hồ.

- Bây giờ cho chú nói lý do chú đến gặp Mai. Hôm chú được mạ Mai nói về chuyện chú với Mai, chú rất bất ngờ và cảm động. Chú cám ơn lòng tốt của Mai đã để ý đến chú. Vì chú sắp đi xa nên nhân tiện chú nói vài điều mong Mai thông cảm. Về phần chú, thú thực chú có yêu Mai, tình yêu đâu từ trước kia bây giờ sống dậy, nhưng chú biết thân phận mình nên im lặng. Rồi bất ngờ nghe đề nghị đó chú không hiểu vì sao?
Chú thua sút mọi người về mọi phương diện, chú cháu mình cũng chưa hề chuyện trò, tình ý gì nhau và chú chắc Mai cũng không hề yêu chú. Vậy thì lý do nào? Xin Mai cho chú một thời gian, hy vọng chúng ta tìm hiểu nhau rồi sẽ quyết định cũng không muộn. Tuần tới chú sẽ rời Virginia, chúc Mai ở lại tìm được một tình yêu, và lời chú khuyên Mai nên sống cho con tim mình, cho tương lai của mình. Ba mạ đâu có sống đời với mình, phải không? Phải có tình yêu trước khi quyết định tiến đến hôn nhân, chứ đừng nghe lời ba mạ, sau nầy hối cũng không kịp.

- Nói xong hắn định đứng dậy. Cô ngước nhìn hắn vẽ giận dữ.

- Thật, xin lỗi chú chứ chú...ngu quá! Chú khuyên cháu nên lấy người mình yêu. Vậy chứ cháu yêu chú thì sao?

- Trời đất! Làm gì có chuyện đó... Không lẽ chỉ mấy lần bưng nước trà mời chú mà lại yêu chú được?!

Chú nói thật không? Cháu cho chú biết điều nầy. Theo cháu. Đi ngã nầy.

Cô đi trước , hắn rụt rè theo sau. Căn apartment chỉ có hai phòng, cô mở cửa một phòng, đi vào “Vô đây!” Hắn sợ quá, chỉ dám đứng ở cửa nhìn vào. Cô chỉ vào một tấm hình cỡ tấm bưu thiếp để trên bàn nhỏ cạnh đầu giường.

- Chú biết ai đây không? Sau tấm hình viết gì không?
- Chú đâu thấy gì, xa quá. Hình như anh chàng nào đứng đấy. Cho chú xem kỹ, có thể chú nhận ra anh chàng bán vé số tốt phước được lọt vào mắt xanh của Mai.
Cô gỡ tấm hình trong khung ra, đưa hắn.

- Nhìn kỹ xem là ai?

Hắn không tin ở mắt mình. Đó là hình hắn, chụp hôm tốt nghiệp trước trường Hành Chánh, sau tấm hình vẫn còn rõ câu hát nhạc vàng “Anh hứa yêu em suốt một đời” Tấm hình hắn tặng cô, qua bao năm với bao thăng trầm, cô vẫn còn giữ, hình cô tặng hắn thì hắn vất nơi nào, lúc nào không rõ.
Ôi! Hình chú đây mà!

Cô ngồi trên giường, xây lưng về phía hắn, hai chân co lên, trên đầu gối là cái gối. Cô úp mặt vào gối yên lặng. Vai cô rung lên nhè nhẹ. Cô khóc, có lẽ vì giận hắn vô tình.

- Cho chú xin lỗi. Chú vẫn nhớ chuyện cũ, nhưng tưởng Mai đã quên. Sao không nhắc, một câu thôi là chú hiểu ra ngay.
- Đâu có dịp nào. Hôm chào cờ ở Eden cũng bỏ đi... Mà biết còn nhớ người ta không hay đã yêu ai rồi?

- Chú nhớ chứ nhưng chú mặc cảm. Chú đâu dám mơ đến giây phút nầy. Hỏi thực Mai, rủi chú bảo đã yêu ai rồi thì sao?

- Mặc kệ... Người ta tìm muốn chết!
Yên lặng một lát.
- Hôm nào đi?
- Bây giờ có họa là điên mới bỏ đi. Trúng số độc đắc chú cũng không mừng bằng. Chú không biết nói gì để cám ơn Mai. Chú...

Cô quay lại, mắt còn đỏ hoe, cô chỉ cái khung hình còn nằm trên giường.
- Chú, chú hoài. Bộ ai ăn thịt sao cứ đứng ngoài đó? Bỏ hình lại vào khung, để lại trên bàn cho em , rồi ngồi xuống đây, em hỏi. Lúc ở tù ai thăm nuôi anh?

- Có thăm chứ không có nuôi. Mẹ anh nghèo quá, các anh của anh cũng ở tù cả.
- Em cũng đoán vậy nên cố tìm mà không biết anh ở trại nào, gia đình ở đâu để thăm nuôi. Em lo quá!

Rồi cô lại cười, nhưng nước mắt chảy dài trên má.

Đây là chuyện cổ tích đẹp nhất trong những ngày buồn thảm nhất của nước Việt Nam Cộng Hoà. Cũng còn nhiều chuyện cổ tích sáng ngời hơn, đẹp đẻ hơn, ai cũng biết nhưng không bao giờ kể ra. Đó là quả tim của những bà mẹ, những bà vợ, những người con giành trọn cho con, cho chồng, cho cha đang chết dần mòn trong ngục tù cộng sản.

Hôm đám cưới, vợ chồng hắn phải đi từng bàn tiệc chào mừng quan khách, bà con, bạn bè. Mỗi nơi cô dâu chú rễ phải uống với khách một ly rượu nhỏ. Vợ hắn chỉ thấm môi nên hắn phải uống hết. Nhiều ly nhỏ thành ly cối. Hắn không biết uống rượu nên say mềm. Bố vợ hắn cũng say. Ông say vì vui nên nói hơi nhiều. Khi khách khứa đã về cả rồi, ông đến bên cạnh, vỗ vai hắn lè nhè.

Cụ mi rứa là tốt phước. Không có ai chung tình như con Út Mai của moa.
Cụ mi biết không? Hắn hành vợ chồng moa đi tìm cụ mi chết xác luôn. Bốn năm đi bốn nơi. Nam Cali tìm cụ mi, Bắc Cali tìm cụ mi, xuống Texas tìm cụ mi, qua đây tìm cụ mi. Chỗ mô cũng tham gia cộng đồng, cũng hội họp. Hắn nói moa có hứa với cụ mi rồi thì phải tìm cụ mi cho hắn. Nhưng moa có nhớ hứa hẹn gì, khi mô đâu? Mà vợ chồng moa đâu biết cụ mi là ai, mặt mũi ra răng.
Tấm hình, mấy chục năm, có ai trẻ mãi không già? Rứa mới chết chớ! Rứa là gặp đứa mô tuổi cụ mi cũng rước về nhà cho hắn nhận diện. Hú vía, hắn còn đòi đi Canada và Úc tìm cụ mi nữa đó. Mà moa nói có ai đi HO qua đó đâu?!..

Đã Phát Hành:


Hai tập truyện ngắn của Phạm Thành Châu
- Bức Họa Khỏa Thân
- Nhớ Huế
Giá mỗi tập 12 USD. (trong nước Mỹ)
Mua hai (2) tập trở lên, giá mỗi tập 10 USD kể cả cước phí.

Liên Lạc:
Phạm Thành Châu

7004 Beverly Lane
Springfield VA 22150

Phone (703) 569-0124 Email: pham.t.chau@juno.com