Sức ép cộng đồng (Trần Ngọc Cư)
Anh Tieu Dao Bảo Cự thân mến,
Chắc anh không biết tôi, nhưng toi biết anh từng ở trong Ban chấp hành Tổng hội Sinh viên Huế giữa thập niên 1960 va hiện la mot nha văn nổi tiếng ở trong va ngoài nước. Toi đã đọc Nửa đời nhìn lại và nhiều bài viết cảa anh trên talawas va Thông Luận. Gần đây, để góp ý về khả năng giao lưu hội nhập giữa nhà văn trong va ngoài nước, anh có bài trên talawas với nội dung chia xẻ y kiến với nhà văn Tô Nhuận Vỹ khi nhận định rằng hiện nay trong cac cộng đồng người Việt nước ngoài các nhà văn VN bị các "phần tử cực đoan" chi phối, xâm phạm tự do. Tôi có cách nhìn khác. Mời anh chia xẻ quan điễm của tôi trong bai viết "Nhà văn và sức ép cộng đồng" (trong attachments). Toi viết bài nay với tư cách một ban đọc hơn là một nhà văn.
Bản thân tôi không có khả năng viết dài hơn để trở thành một nhà văn, nhưng thỉnh thoảng cũng có viết một vài tiểu luận (essays) để giữ cho trí óc minh mẫn trong tuổi xế chiều thế thôi. Vì bài được viết ra như một phản hồi (feedback) gửi đến anh và một đồng hương khác là anh Tô Nhuận Vỹ, tôi hy vọng nếu anh co địa chỉ email của anh Tô Nhuận Vỹ thì cho tôi xin hoặc làm ơn forward email nay đến anh TNV như là một cách làm quen.
Tôi tốt nghiệp ĐHSP Huế cùng một lớp với Trần Đại Hiền, đồng nghiệp của anh ở TH Ban Mê Thuộc. Hiền thường nhắc đến anh với cảm tình tốt đẹp. Lúc ở ĐHSP Huế chắc anh co học môn "Lương tâm chức nghiệp" với thầy Nguyễn Đình Hàm và chắc anh con nhớ câu trấn an rất dễ thương của thầy, "rứa chớ không can chi mô".
Quan điễm của tôi về các cộng đồng người Việt ở nước ngoài có thể tóm tắt bằng cụm từ ấy của thầy Hàm.
Trước thềm Xuân Mậu Tý, kính chúc quí anh va gia đình dồi dào sức khỏe và lòng luôn giữ một niềm tin yêu cho quê hương và cuộc đời.
Trần Ngọc Cư
Sức ép cộng đồng
Là một độc giả của talawas, tôi chăm chú theo dõi cuộc trao đổi về khả năng giao lưu, hội nhập và thậm chí đến cả hoà hợp hòa giả?i giữa các nhà văn trong và ngoài nước. Cuộc trao đổi này được khởi động từ loạt bài 4 kỳ của Tô Nhuận Vỹ, cựu tổng biên tập báo Sông Hương, và sau đó được phản hồi qua lại giữa các người cầm bút như Trần Văn Tích, Tiêu Dao Bảo Cự và vài anh em khác.
Tôi dành mọi sự kính trọng cho quí vị đã tham gia cuộc trao đổi này, vì mỗi người từ góc độ cá nhân của mình đã lý luận khá thuyết phục và thẳng thắn phát biểu điều mình suy nghĩ. Sự khâm phục cuả tôi đặc biệt dành cho hai nhà văn Tô Nhuận Vỹ (TNV) và Tiêu Dao Bảo Cự (TDBC), những người hiện đang sống trong nước mà tính lương thiện trí thức của họ gần như đồng nghĩa với lòng can đảm. Nhưng vẫn có điều tôi không đồng ý với hai vị này.
Qua bài viết của TNV và TDBC, tôi hiểu rằng, lý do thúc đẩy họ kêu gọi giao lưu, hội nhập, hòa hợp hòa giải, phát xuất từ cách nhìn của họ về số phận bị o ép của nhà văn Việt Nam hiện đang sống trên cả hai bên bờ Thái Bình Dương và châu Âu. Nói tắt một câu, theo hai nhà văn này là, ở trong nýớc nhà văn không có tự do vì phải đặt mình dưới sự lảnh đạo của đảng Cộng sản, trong khi đó ở ngoài nước nhà văn phải chịu sự khống chế của các cộng đồng ngýời Việt. Trong kỳ 3 của “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập”, TNV đã nhận xét:
Với nhiều văn nghệ sĩ hải ngoại thì cái mũ “cộng sản” của cộng đồng luôn luôn chực chờ để chụp xuống đầu họ. Báo chí không ít lần đã phải kêu lên về cái thực trạng “mũ cối ở đây nhiều hơn ở cả Hà Nội!”. Cho nên, các nhà văn luôn phải “biểu diễn lập trường” (chữ của Nguyễn Mộng Giác). Trong nhiều dịp chuyện trò tâm sự, không ít anh em đồng nghiệp ở Mỹ trong khi cho rằng trong nước hoàn toàn chưa có tự do sáng tác với khá nhiều ví dụ thì đồng thời cũng khẳng định lúc này, tại đây, cũng chưa có tự do sáng tác như mình ao ước, nên có lúc phải sống hai mặt.
Trong bài “Giao lưu, hội nhập văn học Việt Nam trong và ngoài nước”, TDBC kêu gọi giới cầm bút phải vượt thoát khỏi số phận bất bình thường của mình, một bên do Đảng và nhà nước quan phòng và bên kia do các nhóm “chống Cộng cực đoan” áp đặt, để hai bên có thể giao lưu và tạo điều kiện hội nhập với nhau:
Dĩ nhiên ai cũng biết rằng có tình trạng trên trong vãn học cũng như những ngăn trở trong vấn đề hòa giải hòa hợp dân tộc có cốt lõi nguyên nhân nằm ở chỗ khác. Nói rõ ra ðó là do đường lối chính sách của Đảng và nhà nước hiện nay, và cả sự chi phối của một số người có ảnh hưởng trong “Cộng đồng người Việt Tự do” “chống văn hóa vận cộng sản” như có ngýời đã phân tích (Ý kiến ngắn của Phạm Quang Tuấn ngày 11/1/08).
Trong khi chưa thay ðổi ðược ðường lối chính sách và sự chi phối đó chẳng lẽ không còn con ðường nào khác ðể thoát ra tình trạng què quặt, phi lý nói trên ư
TNV và TDBC đã đặt người đọc trước một phương trình, với vế bên này là nhà văn trong nước chịu sự lảnh đạo của Đảng và vế bên kia là nhà văn hải ngoại bị những người chống Cộng cực đoan o ép, làm mất tự do. Tôi thấy cách lập phương trình như thế là không ổn. Không ổn ở chỗ là nó có thể làm cho những người thiếu tiếp cận với các cộng đồng người Việt ở nước ngoài hiểu lầm là hiện có những nhóm áp lực can thiệp triệt để vào sinh hoạt trí thức của đồng bào ta trong “cộng đồng di tản”, mà hệ luận là chúng có thể tước đoạt tự do của những người cầm bút sống xa Tổ quốc.
Một số nhà văn hải ngoại, mà TNV và TDBC trích dẫn, qui trách việc mất tự do giao lưu với đồng nghiệp trong nước cho những thành phần “chống Cộng cực đoan”. Nhưng cực đoan ở mức độ nào thì chỉ ðược minh hoạ sõ sài, như hành vi chụp mũ “thân Cộng”, cho người khác “đội nón cối”, hay những phát biểu như thề không về thăm lại quê hương khi Việt Nam còn nằm dưới sự thống trị của đảng Cộng sản.
Những biểu hiện như thế này nếu có trong một xã hội đa nguyên cũng là chuyện bình thường thôi và nhất định không có tác dụng ðàn áp. Chừng hai, ba chục năm về trước, khi những tổ chức kêu gọi quang phục quê hương bằng vũ trang hoặc những nổ lực “chống du lịch Việt Cộng” còn ðược một số đồng bào tị nạn đồng tình hoặc tích cực ủng hộ, nếu bị cho đội nón cối như thế cũng là điều đáng ngại.
Nhưng bây giờ tình hình thay đổi rất nhiều. Nhất là sau vụ Khủng bố 11-9-2001. Vì sợ bị qui kết vào tội khủng bố theo luật pháp của nước sở tại, ngay cả một tổ chức từng hô hào dùng vũ lực để “giải phóng Việt Nam” đã phải thay đổi danh xưng và chấp nhận “đấu tranh bất bạo động”.
Giữa người Việt Nam với nhau ở nước ngoài, không ai có quyền mời một đồng bào khác đến nhà hoặc đến một trụ sở nào đó để “làm việc” hay “lên lớp”. Người nào dại dột làm điều đó có thể bị nạn nhân khởi tố trước pháp luật về tội sách nhiểu hay mạ lị. Vì thế việc đem so sánh, nâng sức ép của “một số người có ảnh hưởng trong 'Cộng đồng người Việt Tự do'” lên ngang tầm với sự lảnh đạo của đảng Cộng sản đối với báo chí và hội nhà văn ở trong nước là viết sai phương trình, là cường điệu, không phản ảnh ðược thực tế. Thực tế là, ở Mỹ chẳng hạn, tham dự cộng đồng là sinh hoạt tự nguyện, ai vui thì đến, ai không thích thì ở nhà hoặc đi chỗ khác chơi.
Nếu so sánh với các cộng đồng châu Á khác, có thể nói cộng đồng VN là một sắc dân (ethnic group) thiếu tổ chức và có sinh hoạt rất lỏng lẻo.
Trong một thư kêu gọi độc giả ủng hộ báo Thông luận, chủ nhiệm Nguyễn Văn Huy đã thẳng thắn phản ảnh:
Mặt khác, cũng phải nhìn nhận một sự thật : thời gian cũng đã khiến sự gắn bó với đất nước không còn đậm ðà như trước. Cộng đồng người Việt hải ngoại có lẽ là một trong những cộng đồng mất bản sắc dân tộc nhanh chóng nhất. Chúng ta đã quá quan tâm đến thành công cá nhân và gia ðình, và nói chung đã thành công, nhưng bù lại nhiều con em của chúng ta đã không còn là người Việt. Có những trường hợp mà những thành công cá nhân cộng lại không phải là thành công của tập thể.
Cảnh tượng mạnh ai nấy sống, mất bản sắc dân tộc và lơ là với văn hoá Việt Nam, trong đó có thảm trạng người ta không còn dành ưu tiên cho việc đọc các tác phẩm tiếng Việt, mới thật sự là điều đáng báo động đối với các nhà văn ở hải ngoại, chứ không phải là sức ép của những “phần tử cực đoan”. (Tôi sẽ trở lại chuyện cực đoan này ở một đoạn sau.)
Nhưng bây giờ chúng ta thử nhìn vào thực tế này:
Nhà văn hải ngoại thiếu độc giả. Điều này thật hiển nhiên.
Đa số “Việt kiều” không đọc được tiếng Việt. Muốn có đủ tiếng Việt để thưởng thức một tác phẩm văn chương, chỉ ít độc giả phải học xong chương trình trung học phổ thông bên Việt Nam.
Như thế, nhà văn hải ngoại phải loại ra ngoài danh sách bạn đọc của mình gần như toàn bộ dân số của thế hệ thứ hai (phỏng tính là những người dưới 40 tuổi và ngôn ngữ chính của họ là tiếng nói cuả quê hương thứ hai, một đất nước tôi thấy mình còn xa lạ nhưng con cháu tôi mà có đứa đã gọi nó là “our country” với một lương tâm bình thản.)
Tất nhiên là kiều bào ta sẽ rất hãnh diện nếu có con em trao đổi ðược với cha mẹ bằng tiếng Việt, nhưng vốn tiếng Việt này cũng chỉ đủ để hát karaoke cho vui cửa vui nhà mà thôi, chứ còn lâu mới cày qua nỗi một cuốn tiểu thuyết viết bằng tiếng Việt. Vậy số độc giả mà nhà văn có thể nhắm đến trong cộng đồng là quí ông bà tóc đã ngã màu muối tiêu hay phơ phơ đầu bạc. Nhưng với ngày tháng chẳng còn bao lăm, quĩ thời gian sắp cạn kiệt, người cao niên tất nhiên đâm ra so đo với khoảng thời gian hàng chục giờ phải bỏ ra để đọc cho xong một tác phẩm văn chương.
Nguyễn Gia Kiểng còn rất mực chi li khi ông viết trong lời nói đầu của Tổ quốc ăn năn:
“Thời giờ là cuộc sống, đọc một cuốn sách là bỏ ra một phần của đời mình, vì thế người đọc phải ðược trả giá một cách xứng đáng, nếu không thì chỉ mất thì giờ vô ích, và như thế cuốn sách giống như một vụ mưu sát nhỏ”.
Ngay cả việc tặng sách của mình viết ra cho một người, nhất là người ở tuổi xế chiều, vì thế cũng trở nên là một nghĩa cử rất tế nhị, nghĩa là đừng nên gọi hỏi lại ngýời ta đã đọc tác phẩm của mình hay chưa. Những tin tức đa diện, phong phú, khắp thế giới ðưa về qua các phương tiện truyền thông có khi lại hấp dẫn hơn việc ngồi dùi mài với một cuốn tiểu thuyết tiếng Việt.
Đối diện với số độc giả ngày một thưa dần trong cộng đồng hải ngoại, nhiều nhà văn đã ðưa tác phẩm của mình về xuất bản trong nýớc. Nếu nhiều ca sĩ đã về nước tìm thính giả trong biển người gồm 81 triệu, thì tại sao nhà văn không đi tìm độc giả cho mình trong cách thế tương tự. Nhu cầu giao lưu và hội nhập về phía nhà văn hải ngoại, vì thế, vừa chính đáng vừa bức thiết.
Dẫu sao, phần lớn những nhà văn này tóc cũng đã hoa râm. “Chim bay về núi túi rồi, anh không toan liệu anh ngồi rứa răng?”
Chính đáng, nhưng điều kiện khách quan ở trong nước có cho phép không lại là vấn đề khác. Tất nhiên khi một nhà văn nào đó có sách xuất bản ở trong nước, thì trong cộng đồng lại thì thầm “lời ong tiếng ve”, có khi ðược khởi động từ một đồng nghiệp nào đó, mà động lực chẳng qua “con gà ganh nhau vì tiếng gáy” rồi sau đó mới khoát lên màu cờ sắc áo, chống cọng chống que.
Một nhà văn có bản lãnh không nên run rẩy trước những chuyện vặt này mà vội cho đó là sức ép của những người có thanh thế trong cộng đồng. Xã hội đa nguyên mà! Nếu ðược một số phiếu trên 50 phần trăm, anh nên mở tiệc ăn mừng, đừng nên trông chờ số phiếu trên 90 phần trăm của các nhà lãnh đạo xã hội chủ nghĩa.
Những nhà văn trong nước có ý định giao lýu theo chiều ngược lại, nghĩa là muốn tác phẩm của mình xuất hiện trong cộng đồng di tản cũng cần ý thức vấn đề thiếu độc giả mà nhà văn hải ngoại đang gặp.
“Mai sau dù có bao giờ”-- chẳng hạn trong vòng 5 năm, 10 năm hay 20 năm-- nếu một ngày nào đó thấy tác phẩm của mình bị nằm hôn mê (comatose) trên một kệ sách hải ngoại, xin quí vị đừng vội nghĩ là có bàn tay của “những thành phần chống Cộng cực đoan hay bọn thù nghịch nước ngoài”. Sự thể cũng chỉ vì, quí vị đã lỡ “đem ðàn mà gãi tai trâu” đấy thôi, quí vị đang đối diện với một tuyệt đại đa số đồng bào mù chữ (Việt) thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba của làn sóng tị nạn sau biến cố 30-4-1975.
Giao lưu giữa người trong nước và ngoài nước là xu thế không thể nào đảo ngược và đang ào ạt diễn ra trên mọi lãnh vực với cường độ ngày một tăng. Trong lãnh vực giáo dục chẳng hạn, Việt Nam là một trong 20 nước đứng đầu có nhiều sinh viên du học tại Mỹ. Nhiều loại trường quốc tế khác nhau mà mục đích duy nhất là chuẩn bị cho học sinh đi du học nước ngoài mọc lên ngày càng nhiều ở TP Saigon và Hà Nội, với học phí từ 6 ngàn đô la đến trên dưới 10 ngàn đô la một năm.
Có hai nghịch lý nội tại trong hiện tượng trường quốc tế này. Nếu bạn đầu tư hàng chục ngàn đô la cho con cái ra học nước ngoài, bạn có muốn cho con em mình trở về nước phục vụ để gỡ lại vài ngàn đô la một năm hay không? Hỏi tức là trả lời. Dù không ai nói ra, nhưng hiện tượng trường quốc tế này chỉ là một dạng thức chuẩn bị ra đi có trật tự, ODP (Orderly Departure Program) nối dài, mà người di dân không phải là nạn nhân của cuộc đổi đời 1975.
Số liệu cho biết chỉ 20 phần trăm sinh viên VN du học trở về nước sau khi tốt nghiệp. Nghịch lý thứ hai là, con em các quan chức/đảng viên cao cấp chiếm phần lớn sĩ số học sinh cuả các trường quốc tế này, nơi “các cháu” khỏi bị nhồi nhét những môn học chính trị vô bổ. Nói chung chung, các quan tham là thành phần có đủ điều kiện hơn ai hết để cho con ra đi theo diện ODP-nối dài này.
Bush không phải chỉ là một tên diều hâu, mà còn là tên lẻo mép khi ông tiết lộ Nguyễn Tấn Dũng có con lấy Việt kiều. Nhưng đây cũng chỉ là chuyện bên lề, thậm chí không kích thích ðược trí tò mò, bà con trong cộng đồng hải ngoại nghe qua rồi bỏ thôi. Không một người cực đoan nào chịu hi sinh thì giờ và lộ phí, đốt đèn đi tìm con ông Dũng đang ở đâu. Đây là một biểu hiệu văn minh của đồng bào hải ngoại trong tinh thần thượng tôn luật pháp. Nói rộng ra, sự trưởng thành này là một bảo đảm an toàn và tự do cho các nhà làm văn hoá.
Trong chiều giao lưu ngược lại, lượng Việt kiều về thăm quê hương ngày một tăng, nhất là thành phần nay đang ở tuổi về hưu. Nhà nước Việt Nam dự kiến có đến nửa triệu Việt kiều về ăn Tết Mậu Tý (2008). Dù có sự tham dự của các nhà văn trong và ngoài nước hay không, cuộc giao lưu văn hóa vẫn đang xảy ra mạnh mẽ nhờ khối lượng thông tin chuyển đi và mang về của hàng hàng lớp lớp Việt kiều này. Trong những năm qua, hàng triệu cuốn sách đã ðược chuyển tải trong hành lý của Việt kiều. Bộ máy tuyên truyền của Nhà nýớc Việt nam đã lặng lẽ cho nghỉ hưu cụm từ “diễn biến hoà bình”. Còn những người cực đoan trong cộng động, cứ ngồi một chỗ mà nói chuyện “chống văn hoá vận cộng sản” thì cũng chẳng khác gì lấy thúng úp voi. Không khéo, họ lại còn mang tiếng là xem thường khả năng tiếp thu có chọn lọc của đồng bào.
So với hành động võ biền mang màu sắc xã hội đen của mấy chục năm về trước, mà nạn nhân chẳng hạn là Lê Triết của báo Văn nghệ Tiền phong bị giết hay nhà báo Cao Thế Dung bị bắn trọng thương, nhìn lại chặng ðường đã qua, chúng ta phải hãnh diện về những bước tiến của cộng đồng người Việt ở nước ngoài trên con ðường hội nhập, tiếp thu tinh thần dân chủ và nếp sống văn minh.
Cụ thể mà nói, bây giờ ngay cả trong những cuộc tranh luận công khai, thông thường là trên báo chí, đã có những nhà văn bị chụp mũ là cộng sản hay thiên cộng, nhưng đối tượng của những cáo buộc kiểu này vẫn giữ ðược bình tĩnh, không giao động hay sợ hãi.
Hãy lật báo Con Ong ra mà xem ông Nguyễn Văn Chức trao hàng chục nón cối cho ông Bùi Tín và ông Nguyễn Gia Kiểng. Cũng gần đây thôi, ngay trên talawas, có cuộc đối thoại sôi nổi giữa luật sư Nguyễn Hữu Liêm và tiến sĩ Hoàng Cơ Định, trong đó vị lảnh tụ của đảng Việt Tân, bào đệ của cố đề đốc Hoàng Cơ Minh, đã thoải mái gọi luật sư Liêm là người thân cộng. Và tôi tin luật sư Liêm cũng lắng nghe thoải mái thôi, chẳng mảy may lo lắng về an ninh bản thân mình. An tòan trong dị biệt (safe for diversity) là thuộc tính cơ bản của một xã hội đa nguyên.
Nếu có tác phẩm mà ðược kẻ khen, người chê, thậm chí bị chê nhiều hơn khen, cũng là điều đáng mừng, vì ít ra tác phẩm của anh cũng có kẻ đoái hoài. Nếu có ai vì ác ý mà viết bài chụp mũ anh, người đó đã cho anh một ân sủng trá hình (a blessing in disguise) bằng cách vô hình trung kích thích óc tò mò và gia tăng lượng độc giả cho anh. Trí tuệ của một cộng đồng có trình độ văn hoá cao sẽ đánh giá anh công bằng hơn và trả lại cho nhiều hơn chút danh dự tạm thời bị mất
Trần Ngọc Cư
No comments:
Post a Comment