(E) Mail thường lại, người không thấy lại... Hoa dương tàn, đã trãi rêu xanh... .Rêu xanh mấy lớp chung quanh... .Sân đi một bước trăm tình ngẩn ngơ...

Thursday, September 20, 2007

NỘI - Tiểu Tử -Vùng Paris

NO^.I
Tiểu Tử,
Vùng Paris

- Nội xuống kìa!
- Nội xuống ! Ê ! Nội xuống !
- Nội xuống !
Bầy con tôi reo mừng, chạy ùa ra ngõ. Ngoài đó, tiếng xích lô máy cũng vừa tắt.
Trong buồng, vợ tôi gom vội mấy giấy tờ hồ sơ nhét vào xắc tay, nhìn tôi, im lặng. Tôi hiểu: bà già xuống như vậy, làm sao giấu được chuyện tôi và hai đứa lớn sẽ vượt biên ? Sáng sớm mai là đi rồi …
Tôi choàng tay ôm vai vợ tôi, siết nhẹ :
- Không sao đâu. Để anh lựa lúc nói chuyện đó với má.
Khi vợ chồng tôi bước ra hiên nhà thì bầy nhỏ cũng vừa vào tới sân. Đứa xách giỏ, đứa xách bao, đứa ôm gói, hí hửng vui mừng. Bởi vì mỗi lần bà nội chúng nó từ Gò Dầu xuống thăm đều có mang theo rất nhiều đồ ăn, bánh trái thịt thà … Những ngày sau đó, mâm cơm dưa muối thường ngày được thay thế bằng những món ăn do tay bà nội tụi nó nấu nướng nêm-nếm. Nhờ vậy, mấy bữa cơm có cái phong vị của ngày xưa thuở mà miền Nam chưa mất vào tay Việt Cộng … Mấy con tôi thường gọi đùa bà Nội bằng « trưởng ban hậu cần » hoặc chị « nuôi » và lâu lâu hay trông có bà nội xuống. Và lúc nào câu chào mừng của chúng nó cũng đều giống như nhau : « Nội mạnh hả Nội ? Nội có đem gì xuống ăn không Nội ? ». Mới đầu, tôi nghe chướng tai, nhưng sống trong sự thiếu thốn triền miên của chế độ xã hội chủ nghĩa, lần hồi chính bản thân tôi cũng chỉ nghĩ đến miếng ăn thôi !
Con gái út tôi, mười một tuổi, một tay xách giỏ trầu của bà nội, một tay cặp-kè với bà nó đi vào như hai người bạn. Bà nó cưng nó nhứt nhà. Lúc nào xuống, cũng ngủ chung với nó để nghe nó kể chuyện. Nó thích bà nội ở điều đó và thường nói : « Ở nhà này chỉ có nội là thích nghe em kể chuyện thôi ! ». Thật ra, nó có lối kể chuyện không đầu không đuôi làm mấy anh mấy chị nó bực. Trái lại, bà nó cho đó là một thi vị của tuổi thơ, nên hay biểu nó kể chuyện cho bà nghe, để lâu lâu bà cười chảy nước mắt.
Tôi hỏi má tôi :
- Sao bữa nay xuống trưa vậy nội ?
Vợ chồng tôi hay gọi má tôi bằng « nội » như các con. Nói theo tụi nó, riết rồi quen miệng. Lâu lâu, chúng tôi cũng có gọi bằng « má » nhưng sao vẫn không nghe đầm-ấm nồng-nàn bằng tiếng « nội » của các con. Hồi cha tôi còn sống, tụi nhỏ còn gọi rõ ra « ông nội » hay « bà nội ». Cha tôi mất đi, ít lâu sau, chúng nó chỉ còn dùng có tiếng « nội » ngắn gọn để gọi bà của chúng nó, ngắn gọn nhưng âm thanh lại đầy trìu mến.
Má tôi bước vào nhà, vừa cởi áo bà ba vừa trả lời :
- Thôi đi mầy ơi ! … Mấy thằng công an ở Trảng Bàng mắc dịch ! Tao lên xe hồi sáng chớ bộ. Tới trạm Trảng Bàng tụi nó xét thấy tao có đem một lon ghi-gô mỡ nước, vậy là bắt tao ở lại. Nói phải quấy bao nhiêu cũng không nghe. Cứ đề quyết là tao đi buôn lậu !
Rồi má tôi liệng cái áo lên thành ghế bàn ăn, nói mà tôi có cảm tưởng như bà đang phân trần ở Trảng Bàng :
- Đi buôn lậu cái gì mà chỉ có một lon mở nước ? Ai đó nghĩ coi ! Nội tiền xe đi xuống đi lên cũng hơn tiền lon mỡ rồi. Đi buôn kiểu gì mà ngu dại vậy hổng biết !
- Dễ hôn ! Nội đâu có để cho tụi nó « ăn » lon mỡ, con ! Mỡ heo nội thắng đem xuống cho tụi con chớ bộ.
Ngừng lại, hớp một hớp nước mát mà con út vừa đem ra, xong bà kể tiếp, trong lúc các con tôi quây quần lại nghe:
- Cái rồi … cứ dan ca riết làm nội phát ghét, nội đổ lì, ngồi lại đó đợi tụi nó muốn giải đi đâu thì giải.
Nghe đến đây, bầy con tôi cười thích thú. Bởi vì tụi nó từng nghe ông nội tụi nó kể những chuyện « gan cùng mình » của bà nội hồi xưa khi cùng chồng vào khu kháng chiến, nhứt là giai đoạn trở về hoạt động ngầm ở thành phố sau này, trước hiệp định Genève …
Con út nóng nảy giục :
- Rồi sao nữa nội ?
- Cái rồi … lối mười một mười hai giờ gì đó nội hổng biết nữa. Ờ … cở đứng bóng à. Có thằng cán bộ đạp xe đi ngang. Nó đi qua khỏi rồi chớ, nhưng chắc nó nhìn thấy nội nên hoành xe lại chào hỏi : « Ũa ? Bà Tám đi đâu mà ngồi đó vậy ? ». Nội nhìn ra là thằng Kiểu con thầy giáo Chén ở Tha-La, tụi bây không biết đâu. Kế nội kể hết đầu đuôi câu chuyện cho nó nghe. Nó cười ngất. Rồi nhờ nó can thiệp nên nội mới đi được đó. Lên xe thì đã trưa trờ rồi … Ti ! Kiếm cây quạt cho nội, con !
Ti là tên con út. Cây quạt là miếng mo cau mà má tôi cắt, vanh thành hình rồi đem ép giữa hai tấm thớt dầy cho nó bớt cong .Má tôi đem từ Gò Dầu xuống bốn năm cây quạt mo phân phát cho mấy cháu, nói : « Nội thấy ba má tụi con gỡ bán hết quạt máy, nội mới làm thứ này đem xuống cho tụi con xài. Kệ nó, xấu xấu vậy chớ nó lâu rách ».
Con út cầm quạt ra đứng cạnh nội quạt nhè nhẹ mà mặt mày tươi rói : tối nay nó có « bạn » ngủ chung để kể chuyện ! Vợ tôi đem áo bà ba của má tôi vào buồng mấy đứa con gái, từ trong đó hỏi vọng ra :
- Nội ăn gì chưa nội ?
- Khỏi lo ! Tao ăn rồi. Để tao têm miếng trầu rồi tao với mấy đứa nhỏ soạn đồ ra coi có hư bể gì không cái đã.
Rồi mấy bà cháu kéo nhau ra nhà sau. Tôi nhìn theo má tôi mà bỗng nghe lòng dào dạc. Từ bao nhiêu năm nay, trên người má tôi chẳng có gì thay đổi. Vẫn loại quần vải đen lưng rút, vẫn áo túi trắng ngắn tay có hai cái túi thật đặc biệt do má tôi tự cắt may : miệng túi cao lên tới ngực chớ không nằm dưới eo hông như những áo túi thường thấy. Mấy đứa nhỏ hay đùa : « Cha … bộ sợ chúng nó móc túi hay sao mà nội làm túi sâu vậy nội ? » Má tôi cười : « Ậy ! Vậy chớ túi này chứa nhiều thứ quí lắm à bây ». Những thứ gì không biết, chớ thấy má tôi còn cẩn thận ghim miệng túi lại bằng cây kim tây !
Tôi là con một của má tôi. Vậy mà sau khi cha tôi chết đem về chôn ở Gò Dầu, quê tôi, má tôi ở luôn trên đó. Nói là để châm sóc mồ mả và vườn tược cây trái. Thật ra, tại vì má tôi không thích ở Sài Gòn, mặc dù rất thương mấy đứa cháu. Hồi còn ở chung với vợ chồng tôi để tránh pháo kích - dạo đó, Việt cộng hay bắn hỏa tiễn vào Gò Dầu về đêm – má tôi thường chắc lưỡi nói : « Thiệt … không biết cái xứ gì mà ăn rồi cứ đi ra đi vô, hổng làm gì ráo ». Cái « xứ » Sàigòn, đối với má tôi, nó « tù chân tù tay » lắm, trong lúc ở Gò Dầu má tôi có nhà cửa đất đai rộng rãi, cây trái xum xuê, và dù đã cao niên, má tôi vẫn thường xuyên xách cuốt xách dao ra làm vườn, làm cỏ. Vả lại chung quanh đất má tôi, là nhà đất của các anh bà con bên ngoại của tôi, thành ra má tôi qua lại cũng gần. Các anh chị bà con tới lui thăm viếng giúp đỡ cũng dễ. Cho nên, dù ở một mình trên đó, má tôi vẫn không thấy cô đơn hiu quạnh. Lâu lâu nhớ bầy con tôi thì xuống chơi với chúng nó năm bảy bữa rồi về. Má tôi hay nói đùa là «đi đổi gió»!
Mấy năm sau ngày mất nước, cuộc sống của gia đình tôi càng ngày càng bẩn chật. Cũng như thiên hạ, vợ chồng tôi bán đồ đạc trong nhà lần lần để ăn. Má tôi biết như vậy nên xuống thăm mấy đứa nhỏ thường hơn, để mang « cái gì để ăn » cho chúng nó. Nhiều khi nằm đêm tôi ứa nước mắt mà nghĩ rằng lẽ ra tôi phải nuôi má tôi chớ, dù gì tôi cũng mới ngoài bốn mươi lăm còn má tôi thì tuổi đã về chiều. Vậy mà bây giờ, mặc dù là công nhân viên nhà nước xã hội chủ nghĩa với lương kỹ sư « bật hai trên sáu », tôi đã không nuôi nổi má tôi, mà trái lại chính má tôi phải cắt-ca cắt-củm mang đồ ăn xuống tiếp tế cho gia đình tôi, giống như má tôi mớm cơm đút cháo cho tôi thuở tôi còn thơ ấu ! Thật là một « cuộc đổi đời » ( Việt Cộng thường rêu rao : « Cách mạng là một cuộc đổi đời » ). Nhưng cuộc đổi đời của mẹ con tôi thì thật là vừa chua cay vừa hài hước !
Lắm khi tôi tự hỏi : « Rồi sẽ đi đến đâu ? ». Bấy giờ tôi đã trở thành « trưởng ban văn nghệ » của cơ quan, một lối đi « ngang » mà nhờ đó tôi còn được ở lại với sở cũ. Bởi vì mấy chục năm kinh nghiệm trong nghề nghiệp chánh của tôi, nhà nước cách mạng cho là vô dụng, không « đạt yêu cầu ». Thành ra, tối ngày tôi chỉ lo cho đoàn « nghiệp dư » của cơ quan tập dượt hát múa. Thật là hề. Còn về phần các con tôi, tương lai gần nhứt là đi đánh giặc Kampuchia, tương lai xa hơn thì thật là mù mịt !
Trong lúc tôi không có lối thoát thì một người bạn đề nghị giúp chúng tôi vượt biên, nhưng chỉ đi được có ba người. Vậy là chúng tôi lấy quyết định cho hai đứa lớn đi theo tôi. Chuyện này, chúng tôi giấu má tôi và mấy đứa nhỏ, kể cả hai đứa đã được chọn. Phần vì sợ đổ bể, phần vì sợ má tôi lo. Ai chẳng biết vượt biên là một sự liều lĩnh vô cùng. Rủi đi không thoát là bị tù đày chẳng biết ở đâu, may mà đi thoát cũng chưa chắt là sẽ đến bờ đến bến. Người ta nói trong số những người đi thoát, hai phần ba bị mất tích luôn. Thành ra, « vượt biên » là đi vào miền vô định …
Theo chương trình thì sáng sớm ngày rằm cha con tôi đi xe đò xuống Cần Thơ rồi từ đó có người rước qua sông ông Đốc để xuất hành ngay trong đêm đó. Tôi thắc mắc hỏi : « Tổ chức gì mà đi chui nhằm ngày rằm cha nội? ». Bạn tôi cười : « Ai cũng nghĩ như anh hết. Tụi Việt Cộng cũng vậy. Cho nên hể có trăng sáng là tụi nó nằm nhà nhậu, không đi tuần đi rỏn gì hết. Hiểu chưa ? »
Bữa nay là mười bốn ta nhằm ngày thứ bảy, vợ chồng tôi định không nói gì hết, chờ sáng sớm mai gọi hai đứa lớn dậy đi với tôi xuống Cần Thơ. Như vậy là chúng nó sẽ hiểu. Và như vậy là kín đáo nhứt, an toàn nhứt. Rồi sau đó vợ tôi sẽ liệu cách nhắn tin về cho má tôi hay. Chừng đó thì « sự đã rồi » …
Bây giờ thì má tôi đã có mặt ở đây, giấu cũng không được .Đành phải nói cho má tôi biết. Nhưng nói lúc nào đây ? Và nói làm sao đây ? Liệu má tôi có biết cho rằng tôi không còn con đường nào khác ? Liệu má tôi có chấp nhận cho tôi không giữ tròn đạo hiếu chỉ vì lo tương lai cho các con ? Liệu má tôi … liệu má tôi … Tôi phân vân tự đặt nhiều câu hỏi để chẳng thấy ở đâu câu trả lời …
Tôi ngồi xuống thềm nhà, nhìn ra sân. Ở đó, bờ cỏ lá gừng xanh mướt ngày xưa đã bị chúng tôi đào lên đấp thành luống để trồng chút đỉnh khoai mì, một ít khoai lan, vài hàng bắp. Không có bao nhiêu nhưng vẫn phải có. Cho nó giống với người ta, bởi vì nhà nào cũng phải « tăng gia » cho đúng « đường lối của nhà nước ». Thật ra, trồng trọt bao nhiêu đó, nếu có … trúng mùa đi nữa, thì cũng không đủ cho bầy con tôi « nhét kẻ răng » ! Vậy mà tên công an phường, trong một dịp ghé thăm, đã tấm tắc khen : « Anh chị công tác tốt đấy chứ. Tăng gia khá nhất khu phố đấy ! Các cháu tha hồ mà ăn ». Anh ta không biết rằng mấy nhà hàng xóm của tôi, muốn « tăng gia », họ đã phải đào cả sân xi-măng hoặc sân lót gạch, thì lấy gì để « làm tốt »?
Khi tôi trở vào nhà thì con út đang gãi lưng cho nội. Nó vén áo túi nội lên đến vai, để lộ cái lưng gầy nhom, cong cong và hai cái vú teo nhách. Tôi tự hỏi : « Lạ quá ! Chỉ có mình mình bú hồi đó mà sao làm teo vú nội đến như vậy được ? ». Rồi tôi bồi hồi cảm động khi nghĩ rằng chính hai cái núm đen đó đã nuôi tôi lớn lên với dòng sữa ấm, vậy mà chẳng bao giờ nghe má tôi kể lể công lao. Tôi cảm thấy thương má tôi vô cùng. Tôi len lén từ phía sau lòn tay măn vú má tôi một cái. Má tôi giựt mình, rút cổ lại :
- Đừng ! Nhột !Thằng chơi dại mậy !
Rồi má tôi cười văng cốt trầu. Con Ti la lên :
- Má ơi ! Coi ba măn vú nội nè !
Tôi cười hả hê thích thú. Trong khoảnh khắc thật ngắn ngủi đó, tôi bắt gặp lại những rung động nhẹ nhàng sung sướng khi tôi măn vú mẹ thuở tôi mới lên ba lên năm … Và cũng trong khoảnh khắc đó, tôi đã quên mất rằng má tôi đã gần tám mươi mà tôi thì trên đầu đã hai thứ tóc ! Và cũng quên mất rằng từ ngày mai trở đi, có thể tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại má tôi nữa, để măn vú khi bất chợt thấy má tôi nhờ cháu nội gãi lưng như hôm nay …
Chiều hôm đó, khi ngồi vào bàn ăn, mắt bầy con tôi sáng rỡ. Bữa cơm thật tươm tất, đầy đủ món ăn như khi xưa. Có gà nấu canh chua lá giang, một loại giây leo có vị chua thật ngọt ngào mà hình như chỉ ở miệt quê tôi mới có. Món này, bà nội mấy đứa nhỏ nấu thật đậm đà. Bà thường nói : « Canh chua phải nêm cho cứng cứng nó mới ngon ». Mà thật vậy. Tô canh nóng hổi, bốc lên mùi thơm đặc biệt của thịt gà lẫn với mùi chua ngọt của lá giang, mùi mặn đằm thấm của nước mắm và mùi tiêu mùi hành … Húp vào một miếng canh chua, phải nghe đầu lưỡi ngây ngây cứng cứng và chân tóc trên đầu tăng tăng, như vậy mới đúng. Nằm cạnh tô canh chua là tộ cá kèo kho tiêu mà khi mang đặt lên bàn ăn nó hãy còn sôi kêu lụp-bụp, bốc mùi thơm phức vừa mặn vừa nồng cay lại vừa béo, bỡi vì trong cá kho có tóp mỡ và trước khi bắt xuống, bà nội có cho vào một muỗng mỡ nước gọi là « để cho nó dằn » ! Đặc biệt, khi làm cá kèo, bà không mổ bụng cá, thành ra khi cắn vào đó, mật cá bể ra đăng đắng nhẹ nhàng làm tăng vị bùi của miếng cá lên gấp bội. Ngoài hai món chánh ra, còn một dĩa măng luộc, tuy là một món phụ nhưng cũng không kém phần hấp dẫn nhờ ở chỗ sau khi luộc rồi măng được chiên lại với tỏi nên ngã màu vàng sậm thật là đậm đà …
Sau khi và vài miếng, vợ tôi nhìn tôi rồi rớt nước mắt. Nội hỏi :
- Bộ cay hả ?
Vợ tôi “dạ”, tiếng “dạ” nằm đâu trong cổ. Rồi buông đũa, mếu máo chạy ra nhà sau. Tôi hiểu. Bữa cơm này là bữa cơm cuối cùng, bữa cơm mà cả gia đình còn xum họp bên nhau. Rồi sẽ không còn bữa cơm nào như vầy nữa. Gia đình sẽ chia hai. Những người đi, rồi sẽ sống hay chết ? Còn những người ở lại, ai biết sẽ còn tan tác đến đâu ? Tôi làm thinh, cắm đầu ăn lia lịa như mình đang đói lắm. Thật ra, tôi đang cần nuốt thật nhanh thật nhiều, mỗi một miếng nuốt phải thật đầy cổ họng … để đè xuống, nén xuống một cái gì đang trạo trực từ dưới dâng lên. Mắt tôi nhìn đồ ăn, nhìn chén cơm, nhìn đôi đũa, để khỏi phải nhìn má tôi hay nhìn bầy con, ngần đó khuôn mặt thân yêu mà có thể tôi sẽ vĩnh viễn không còn thấy lại nữa. Trong đầu tôi chợt hiện ra hình ảnh người đang hấp hối, trong giây phút cuối cùng lưỡi đã cứng đơ mắt đã dại, vậy mà họ vẫn nhìn nuối những người thương để rồi chảy nước mắt trước khi tắt thở. Rồi tôi thấy tôi cũng giống như người đang hấp hối, không phải chết ở thể xác mà là chết ở tâm hồn, cũng một lần vĩnh biệt, và cũng sẽ bước vào một cõi u-minh nào đó, một cõi thật mơ hồ mà mình không hình dung được, không chủ động được !
Má tôi gắp cho tôi một cái bụng cá to bằng ngón tay cái :
- Nè ! Ngon lắm ! Ăn đi ! Để rồi mai mốt hổng chắc gì có mà ăn !
Ý má tôi muốn nói rằng ở với Việt Cộng riết rồi đến loại cá kèo cũng sẽ khan hiếm như các loại cá khác. Nhưng trong trường hợp của tôi, lời má tôi nói lại có ý nghĩa của lời tống biệt. Nó giống như : ”Má cho con ăn lần này lần cuối. Ăn đi con ! Ăn cho ngon đi con !”. Tôi ngậm miếng cá mà nước mắt trào ra, không kềm lại được. Nếu không có mặt bầy con tôi, có lẽ tôi đã cầm lấy bàn tay của má tôi mà khóc, khóc thật tự do, khóc thật lớn, để vơi bớt nỗi thống khổ đã dằn vật tôi từ bao nhiêu lâu nay … Đằng này, tôi không làm như vậy được. Cho nên tôi trạo trực nuốt miếng cá mà cảm thấy như nó thật đầy xương xóc !
Má tôi nhìn tôi ngạc nhiên :
- Ủa ? Mày cũng bị cay nữa sao ?
Rồi bà chồm tới nhìn vào tộ cá. Các con tôi nhao nhao lên :
- Đâu có cay, nội.
- Con ăn đâu thấy cay. Hai có nghe cay hôn Hai ?
- Chắc ba má bị gì chớ cay đâu mà cay.
- Con ăn được mà nội. Có cay đâu ?
Các con tôi đâu có biết rằng cái cay của tôi không nằm trên đầu lưỡi, mà nó nằm trong đáy lòng. Cái cay đó cũng bắt trào nước mắt !
Tôi đặt chuyện, nói tránh đi :
- Hổm rày nóng trong mình, lưỡi của ba bị lở, nên ăn cái gì mặn nó rát.
Rồi tôi nhai thật chậm để có thời gian cho sự xúc động lắng xuống. Miếng cơm trong miệng nghe như là sạng sỏi, nuốt không trôi …
Sau bữa cơm, bà cháu kéo hết vào buồng tụi con gái để chuyện trò. Thỉnh thoảng nghe cười vang trong đó. Chen trong tiếng cười trong trẻo của các con, có tiếng cười khọt khọt của nội, tiếng cười mà miếng trầu đang nhai kềm lại trong cổ họng, vì sợ văng cốt trầu. Những thanh âm đó toát ra một sự vô tư, nhưng lại nghe đầy hạnh phúc. Lúc này, có nên nói chuyện vượt biên với má tôi hay không ? Tội nghiệp bầy con, tội nghiệp nội … Ngoài phòng khách, tôi đi tới đi lui suy nghĩ đắn đo. Vợ tôi còn lục đục sau bếp, và cho dù vợ tôi có mặt ở đây cũng không giúp gì tôi được với tâm sự rối bời như mớ bòng bong. Tôi bèn vào buồng ngủ, trải chiếu dưới gạch-từ lâu rồi, vợ chồng tôi không còn giường tủ gì hết- rồi tắt đèn nằm trong bóng tối, gác tay lên tráng mà thở dài …
Thời gian đi qua … Trăng đã lên nên tôi thấy cửa sổ được vẽ những lằn ngang song song trắng đục. Trong phòng bóng tối cũng lợt đi. Không còn nghe tiếng cười nói ở phòng bên và tôi nghĩ chắc đêm nay vợ tôi ngủ với hai đứa lớn ngoài phòng khách, để trằng trọc suốt đêm chờ sáng.
Bỗng cửa phòng tôi nhẹ mở, vừa đủ để tôi nhìn thấy bóng má tôi lom khom hướng vào trong hỏi nhỏ :
- Ba con Ti ngủ chưa vậy ?
Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng trả lời nho nhỏ vừa đủ nghe :
- Dạ chưa, má.
Má tôi bước vào đóng cửa lại, rồi mò mẫm ngồi xuống cạnh tôi, tay cầm quạt mo quạt nhè nhẹ lên mình tôi, nói :
- Coi bộ nực hả mậy ?
- Dạ. Nhưng rồi riết cũng quen, má à.
Tôi nói như vậy mà trong đầu nhớ lại hình ảnh tôi và thằng con trai hè hụi tháo gỡ mấy cây quạt trần để mang đi bán. Im lặng một lúc. Tay má tôi vẫn quạt đều.
Rồi má tôi hỏi:
- Tụi bây còn gì để bán nữ! ;a hông ?
- Dạ …
Tôi không biết trả lời làm sao nữa. Chiếc xe hơi bây giờ chỉ còn lại cái sườn, không ai chịu chở đi. Trong nhà bây giờ chỉ còn bộ bàn ăn, cái tủ thờ nhỏ và bộ xa-long mây “sứt căm gãy gọng”. Ngoài ra, trên tường có chân dung “Bác Hồ” dệt bằng lụa và nhiều “bằng khen”,”bằng lao động tiên tiến” … những thứ mà nhà nào cũng có hết, cho, chưa chắc gì có ai thèm lấy ! Bỗng tôi nhớ có một hôm tôi nói với bầy con tôi : ”Ba tự hào đã giữ tròn liêm sỉ từ mấy chục năm nay. Bây giờ, đổi lấy cái gì ăn cũng không được, đem ra chợ trời bán cũng chẳng có ai mua. Sao ba thấy thương các con và tội cho ba quá !”. Lúc đó, tôi tưởng tượng thấy tôi đứng ở chợ trời, dưới chân có tấm bảng đề “Bán cái liêm sỉ, loại chánh cống. Bảo đảm đã hai mươi năm chưa sứt mẻ”. Thật là khùng nhưng cũng thật là chua chát !
Nghe tôi “dạ” rồi nín luôn, má tôi hiểu, nên nói:
- Rồi mầy phải tính làm sao chớ chẳng lẽ cứ như vầy hoài à ? Tao thấy bầy tụi bây càng ngày càng trõm lơ, còn mầy thì cứ làm thinh tao rầu hết sức.
Má tôi ngừng một chút, có lẽ để lấy một quyết định :
- Tao xuống kỳ này, cốt ý là để nói hết cho mầy nghe. Tao già rồi, mai mốt cũng theo ông theo bà. Mày đừng lo cho tao. Lo cho bầy con mầy kìa. Chớ đừng vì tao mà bắt mấy đứa nhỏ phải hy sinh tương lai của tụi nó. Mầy liệu mà đi, đi ! Kiếm đường mà kéo bầy con mầy đi, đi ! Ở đây riết rồi chết cả chùm. Không chết trận trên Miên thì cũng chết khùng chết đói. Thà tụi bây đi để tao còn thấy chút đỉnh gì hy vọng mà sống thêm vài năm nữa. Mày hiểu hôn ?
Nghe má tôi nói, tôi rớt nước mắt. Chuyện mà bao lâu nay tôi không dám nói với má tôi thì bây giờ chính má tôi lại mở ngỏ khai nguồn. Và tôi thật xúc động với hình ảnh bà mẹ già phải đẩy đứa con duy nhứt đi vượt biên để vui mà sống với ít nhiều hy vọng ! Thật là ngược đời : có người mẹ nào lại muốn xa con ? Chỉ có ở chế độ xã hội chủ nghĩa mới xảy ra những chuyện “đổi đời” như vậy !
Tôi nắm bàn tay không cầm quạt của má tôi, lắc nhẹ :
- Má à ! Lâu nay con giấu má. Bây giờ má nói, con mới nói. Sáng sớm mai này, con và hai đứa lớn sẽ xuống Cần Thơ để vượt biên.
Tôi nghe tiếng cây quạt mo rơi xuống gạch. Rồi yên lặng. Một lúc lâu sau, má tôi mới nói :
- Vậy hà …
Tôi nghe có cái gì nghẹn ngang trong cổ. Tôi nuốt xuống mấy lần, rồi cố gắng nói :
- Con đi không biết sống hay chết. Con gởi má vợ con và ba đứa nhỏ, có bề gì xin má thương tụi nó …
Nói tới đó, tôi nghẹn ngào rồi òa lên khóc ngất. Tôi nghe có tiếng quạt phe phẩy lại, nhanh nhanh, và bàn tay má tôi vuốt tóc tôi liên tục giống như hồi nhỏ má tôi dỗ về tôi để tôi nín khóc.
Một lúc sau, má tôi nói :
- Thôi ngủ đi, để mai còn dậy sớm.
Rồi bước ra đóng nhẹ cửa lại. Sau đó, có tiếng chẹt diêm quẹt rồi một ánh sáng vàng vọt rung rinh lòn vào khuôn cửa, tôi biết má tôi vừa thắp đèn cầy trên bàn thờ. Tiếp theo là mùi khói nhang, chắc bà nội mấy đứa nhỏ đang cầu nguyện ngoài đó.
Tôi thở dài, quay mặt vào vách, nhắm mắt mà nghe chơi vơi, giống như đang nằm trong một cơn mộng …
Năm giờ sáng hôm sau, má tôi kêu tôi dậy đi. Hai con tôi đã sẵn sàng, mỗi đứa một túi nhỏ quần áo. Chúng nó không có vẻ gì ngạc nhiên hay xúc động hết. Có lẽ mẹ tụi nó đã gọi dậy từ ba bốn giờ sáng để giảng giải và chuẩn bị tinh thần. Riêng tôi, thật là trầm tĩnh. Nước mắt đêm qua đã giúp tôi lấy lại quân bình. Thật là mầu nhiệm !
Tôi vào buồng hôn nhẹ mấy đứa nhỏ đang ngủ say, xong ôm vợ tôi, ôm má tôi. Hai người thật là can đảm, không mảy may bịn rịn.
Tôi chỉ nói có mấy tiếng :
- Con đi nghe má !
Rồi bước ra khỏi cổng.
-oOo-
Lần đó, tôi đi thoát.
Rồi phải ba bốn năm sau, tôi mới chạy chọt được cho vợ con tôi rời Việt Nam sang sum họp với tôi ở Pháp. Má tôi ở lại một mình.
Mấy ngày đầu gặp lại nhau, vợ con tôi kể chuyện “bên nhà” cho tôi nghe, h&#! 7871;t c huyện này bắt qua chuyện nọ. Bà Nội được nhắc tới nhiều nhứt và những chuyện về bà nội được kể đi kể lại thường nhứt.
Tụi nó kể :
“Ba đi rồi, mấy bữa sau cơ quan chỗ ba làm việc cho người đến kiếm. Tụi con trốn trong buồng, để một mình nội ra. Nội nói rằng nội nhờ ba về Tây Ninh rước ông Tư xuống bởi vì trên đó đang bị Cao Miên pháo kích tơi bời, tới nay sao không thấy tin tức gì hết, không biết ba còn sống hay chết nữa. Nói rồi, nội khóc thật mùi-mẫn làm mấy cán bộ trong cơ quan tin thiệt, họ an ủi nội mấy câu rồi từ đó không thấy trở lại nữa”.
Rồi tụi nó kết câu chuyện với giọng đầy thán phục :
“Nội hay thiệt !”.
Nghe kể chuyện, tôi bồi hồi xúc động. Tôi biết lúc đó má tôi khóc thiệt chớ không phải giả khóc như các con tôi nghĩ. Bởi vì, trong hai trường hợp dù sự việc xảy ra có khác nhau, nhưng hoàn cảnh sau đó vẫn giống nhau y hệt. “Ba con Ti đi không biết sống hay chết” vẫn là câu hỏi lớn đè nặng tâm tư của má tôi. Bề ngoài má tôi làm ra vẻ bình tĩnh để an lòng con dâu và cháu nội, nhưng là một cái vỏ mỏng manh mà trong khi kể chuyện cho các cán bộ, nó đã có dịp bể tung ra cho ưu tư dâng đầy nước mắt …
“Rồi sau đó -tụi con tôi kể tiếp- nội ở lại nhà mình để chờ tin tức và cũng để ra tiếp chuyện hàng xóm và chánh quyền địa phương, chớ má thì ngày nào cũng đi chùa, còn tụi con nội sợ nói hé ra là mang họa cả đám. Lâu lâu, nội về Gò Dầu bán đồ rồi mua thịt thà đem xuống tiếp tế cho tụi con. Thấy nội già mà lên lên xuống xuống xe cộ cực nhọc quá, tụi con có can ngăn nhưng nội nói nội còn mạnh lắm, nội còn sống tới ngày con Ti lấy chồng nội mới chịu theo ông theo bà !”.
Tôi biết : má tôi là cây cau già - quá già, quá cỗi - nhưng vẫn cố bám lấy đất chỉ vì trên thân cây còn mấy dây trầu … Hình ảnh đó bỗng làm tôi ứa nước mắt. Thương má tôi và nhớ cả quê hương. Cái quê hương tuyệt đẹp của tôi mà Việt Cộng đã cướp mất. Cái quê hương mà trên đó tôi không còn quyền sống như ý mình muốn, phát biểu những gì mình nghĩ, ca tụng những gì mình thích. Ở đó, ở quê hương tôi, tôi còn bà mẹ già, bà mẹ tám mươi đã cắt ruột đuổi con đi, bỏ quê hương mà đi, để bà còn chút gì hy vọng sống thêm vài ba năm nữa ! Bây giờ, vợ con tôi cũng đã đi hết. Má tôi còn lại một mình. Thân cây cau giờ đã nhẵn dây trầu, thêm tuổi đời một nắng hai mưa. Tôi biết ! Má ơi ! Con biết : cây cau già bây giờ đang nhớ thắt thẻo mấy dây trầu non …
Theo lời các con tôi kể lại, hôm tiếp được điện tín của bạn tôi ở Pháp đánh về báo tin tôi và hai đứa lớn đã tới Mã Lai bình yên, cả nhà tưng bừng như hội. Tụi nó nói : “Nội vội vàng vào mặc áo rồi quì trước bàn thờ Phật gõ chuông liên hồi. Đã giấu không cho ai biết mà nội gõ chuông giống như báo tin vui cho hàng xóm!”
“Mấy hôm sau, bỗng có công-an phường lại nhà. Công an đến nhà là lúc nào cũng có chuyện gì đó cho nên nội có hơi lo. Thấy dạng tên công an ngoài ngõ, trong này nội niệm Phật để tự trấn an. Sau đó, nội cũng kể chuyện ba về Tây Ninh rồi nội kết rằng ba đã chết ở trên đó. Rồi nội khóc … ”
Mấy con tôi đâu biết rằng đối với má tôi, dù tôi còn sống, sống mà vĩnh viễn không bao giờ thấy lại nhau nữa thì cũng giống như là tôi đã chết.
“ Sau đó nội than không biết rồi sẽ ở với ai, rồi ai sẽ nuôi nội, bởi vì má buồn rầu đã bỏ nhà đi mất. Nghe vậy, tên công an vội vàng an ủi :
- Bà cụ đừng có lo ! Rồi chúng cháu sẽ đem bà cụ về ở với chúng cháu. Cứ yên chí !”. Sau khi tên công an ra về, nội vào buồng kể lại chuyện đó cho tụi con nghe, rồi nói : “Nội nghe thằng công an đòi đưa nội về nuôi mà nội muốn xỉu luôn ! Không phải vì cảm động mà vì sợ ! Ở với tụi nó, thà chết sướng hơn !”
Vợ con tôi được đi chánh thức nên hôm ra đi bạn bè thân quyến đến chia tay đầy nhà. Lúc mẹ con nó quì xuống lạy má tôi để giả biệt -hay đúng ra để vĩnh biệt- tất cả mọi người đều khóc. Đó là lần cuối cùng mà má tôi khóc với bầy cháu nội. Và tôi nghĩ rằng má tôi khóc mà không cần tìm hiểu tại sao mình khóc, chỉ thấy cần khóc cho nó hả, chỉ thấy càng khóc thân thể gầy còm càng nhẹ đi, làm như thịt da tan ra thành nước mắt, thứ nước thật nhiệm mầu mà Trời ban cho con người để nói lên tiếng nói đầy câm lặng.
Bầy bạn học của các con tôi đứng thành hai hàng dài, chuyền nước mắt cho nhau để tiễn đưa tụi nó ra xe ngoài ngõ. Tôi hình dung thấy những cặp mắt thơ ngây mọng đỏ nhìn các con tôi đi mà nửa hồn tê-dại, không biết thương cho bạn mình đi hay thương cho thân phận mình, người ở lại với đầy chua xót …
Mấy con tôi nói :
”Nội không theo ra phi trường. Nội ở nhà để gõ chuông cầu nguyện”.
-oOo-
Tôi làm việc ở Côte d'Ivoire ( Phi Châu ), cách xa vợ con bằng một lục địa, và cách xa mẹ tôi bằng nửa quả địa cầu. Những lúc buồn trống vắng, tôi hay ra một bãi hoang gần sở làm để ngồi nhìn biển cả. Mặt nước vuốt ve chân cát, tiếng sóng nhẹ nghe như thì thào … những thứ đó làm như chỉ dành cho riêng tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy như được dỗ về an ủi. Những lúc đó, sao tôi nhớ má tôi vô cùng. Trên đời này má tôi là người duy nhứt an ủi tôi từ thuở tôi còn ấu thơ cho đến khi trên đầu tôi đã hai thứ tóc. Ngay đến đêm cuối cùng trên quê hương, cũng chính trong vòng tay khẳng khiu của má tôi mà tôi khóc, khi gởi vợ gởi con … Lúc nào tôi cũng tìm thấy ở má tôi một tình thương thật rộng rãi bao la, thật vô cùng sâu đậm, giống như đại dương mà tôi đang nhìn trước mặt.
Bây giờ tôi hiểu tại sao tôi hay ra ngồi đây để nhìn biển cả …

tiểu tử

Thursday, September 13, 2007

BỨT BỔI BÌNH ĐIỀN - Trần Kiêm Đoàn

BỨT BỔI BÌNH ĐIỀN
Trần Kiêm Đoàn
Viết tặng hội “Gia Đình Bình Điền” vừa mới thành lập tại Bắc Cali.


- Anh được bà con trong tổ nhất trí bầu làm nhóm trưởng nhóm bứt bổi Bình Điền.
Ông tổ trưởng tổ dân phố xóm Đinh Công Tráng, công khai thông báo chức vụ mà tôi vừa “đắc cử” nhưng không nói ai bầu. Tôi chưa hề ứng cử vào chức vụ “bứt bổi”, vì từ ngày mẹ sinh ra, tôi chưa hề biết bứt bổi là mặt ngang mặt dọc như thế nào cả.
Sau ngày bị cho nghỉ dạy ra khỏi trường Đồng Khánh tôi hồi hộp đợi chờ số phận kế tiếp của mình nhưng “mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh”. Chờ mãi cho đến hôm qua tôi mới được tổ trưởng cho biết là tôi đã được “trên” trả về tổ dân phố để lao động sản xuất. Khu vực lao động sản xuất cho tổ dân phố của tôi là một nơi nào đó tại Bình Điền mà tôi chưa hề đặt chân đến. Trong tổ có gần chục gia đình. Nhưng phần lớn là công nhân viên Nhà Nước hay xã viên hợp tác xã. Đầu đường phía Nam là gia đình anh Lý Văn Nghiên, nhà giáo nhưng từng xông pha xuống đường trước 1975 nên nay được bố trí công tác văn nghệ quần chúng. Cuối đường phía Bắc là gia đình ông Khang lái xe vận tải vừa vào hợp tác xã. Nhiều gia đình trong tổ có chân trong các hợp tác xã tre mây, may mặc… nên sự vinh quang lao động sản xuất, tạo ra của cải vật chất sắn khoai cho xã hội lại giao cho những người dân phố chợ… chưa có sự mà cũng chẳng có nghiệp hoặc loại lỡ thầy, lỡ thợ, quen nắm viết, cầm phấn hơn là nắm cày, cầm cuốc như tôi.
Thời điểm người khôn của khó mà bị đuổi ra khỏi công sở thì có muốn vác bị gậy đi xin cũng kẹt đường. Loài người tiến bộ hơn loài vật vì biết che và biết khoe. Trước 1975, người ta đua nhau khoe giàu nó quý phái như thế nào thì những ngày sau 1975 đua nhau che của, khoe nghèo nó cao quý như thế ấy. Cho nên, được làm nhóm trưởng nhóm bứt bổi thì cũng vẫn còn vẻ vang trong thiên hạ đang hồi tranh nhau đi theo quỹ đạo vòng quay của thời thế rồi.
Ngày lực lượng các tổ dân phố phường Thuận Thành chúng tôi vác cuốc xẻng, dao rựa xuất quân lên Bình Điền lao động sản xuất, tôi mới khám phá ra rằng, tôi là cấp chỉ huy của 3 nhân vật. Ông Khàn bị bệnh suyển kinh niên nên có tên là Khàn Suyển. Ở trong xóm, ông Khàn nổi tiếng là hiền nhân nhưng không phải là quân tử nên ông thường dạy vợ tận tình bằng cách nói lui nói tới một câu danh ngôn bất hủ, rằng là: “Thấy chồng hiền xỏ chân vô mũi; thấy chồng dữ lủi thủi bỏ đi!” Sự thật phũ phàng là ông Khèn chưa bao giờ thưởng thức được vế thứ hai để làm cho bà Khàn “lủi thủi bỏ đi” cả. Có lẽ vì thế mà trông mũi ông có vẻ thông thoáng lớn khác thường: Vì bị xỏ chân hơi nhiều chăng? Nhân vật thứ hai là “Bảo Cận”. Viết tắt của Bảo cận thị chứ không phải bà con với Bảo Đại, Bảo Long. Nếu thu tóm cả thảy giang sơn thì Bảo cận cũng cân được hơn vài ba chục ký xương da. Nó bị cận nặng nhưng không bao giờ được làm trí thức đeo kính trắng vì quá nghèo, không tiền mua kính. Muốn xem cái gì nó phải đưa gần chạm mắt mũi mới thấy. Người đời tự hỏi, không biết đã có lần nào nó được xem nhan sắc người đẹp theo kiểu đưa giai nhân đến gần sát mũi như thế hay chưa? Nhân vật thứ ba là bà Đắt. Vì phát âm giọng Huế không phân biệt, nên người ta không biết bà tên thiệt là “Đắc” hay “Đắt”, nhưng dẫu tên nào thì bà cũng hầm hừ bất mãn nếu ai gọi bà ta là “mụ”! Bà là người lao động năng nỗ, nhưng lao động miệng thì xuất sắc hơn là lao động tay chân nên chưa có công ty nào dám mướn bà ấy cả. Cái quán cóc nước chè và bánh kẹo đầu kiệt của bà cũng phải dẹp vì khách hàng không có ai đỡ nổi mười thành công lực từ cái miệng xoen xoét rất cực kỳ xông xáo của bà.
Ấy thế mà chúng tôi lại thành một tổ hợp “tứ nhân bang” vô cùng ăn khớp. Vừa bước chân lên mảnh đất Bình Điền, tôi đang còn ngơ ngác trước cảnh cây cỏ hoang dã, ruộng đồi xanh tươi đầy hứa hẹn nhưng có vẻ như thiếu bàn tay người từ thuở khai thiên. Bà Đắc gọi tôi bằng “thầy” với giọng nể nang dành cho “kẻ sĩ” lỡ thời. Bà ta tỏ ra thông minh và cũng là người có cốt cách chỉ huy thiên phú. Với giọng nói khàn khàn đầy vẻ quyết đoán, bà ta nắm quyền tư lệnh từ hiệp mở màn và long trọng tuyên bố:
- Nói chuyện vô duyên… chớ làm vợ, làm chồng, làm ông, làm tớ chi cũng không khó bằng cái chuyện làm thầy. Học hành mới khó. Thầy mà học được rồi thì mần chi cũng được cả. Nhằm nhò chi ba cái chuyện bứt bổi tầm phơ ni mà lo cho mệt óc. Thầy cứ liệng quách đó cho tui lo rồi ngồi chơi nhổ râu cho khỏe.
Tôi hỏi “bứt bổi là làm gì”, bà Đắc liền giải thích:
- Bứt bổi là cắt cây lá nhỏ còn tươi như tràm, chổi, tranh, sim, móc, cây leo, cây bò… đủ thứ rồi dồn lại un đống để tủ hay làm phân xanh.
Phân xanh thì tôi còn hiểu được chứ “tủ” là gì tôi chưa biết nên hỏi. Bà Đắc trả lời:
- “Tủ” là rãi lên chỗ đất mới trồng để che nắng che mưa hay đậy cho chim chuột khỏi tới phá đó thầy nờ.
Làm xong phần nhập đề bà Đắc liền dõng dạc ra lệnh:
- Nghe tui phân công đây nì. Chú Khàn suyển bứt bổi. Thằng Bảo cận theo hốt rồi ôm về đây un thành một đống.
Thằng Bảo chớp chớp đôi mắt cận thị nặng, im lặng ra dáng chấp hành nghiêm chỉnh. Còn ông Khàn thì vẫn cố vùng lên lần chót hỏi lại:
- Rứa còn thím Đắc với thầy Đoàn làm chi?
Bà Đắc chưa kịp để lời ông Khàn ra khỏi miệng đã vội triệt đường cứu viện, nói kiểu làm đày:
- Chú bứt bổi thì cứ lo bứt đi. Còn việc tui, tui lo. Thầy Đoàn lãnh đạo thì lo lãnh đạo chớ không làm chi cả.
Ông Khàn e dè hỏi, giọng nhỏ lại:
- Lãnh đạo là không làm chi cả à ?
Bà Đắc chận lời, giọng đầy vẻ lý luận chính trị :
- Nì, chú Khàn coi chừng đó nghe. Lãnh đạo là lãnh đạo. Lãnh đạo y chang như thằng giữ trâu. Có khi mô con trâu dám hỏi là mầy đang làm gì trên lưng tao đó không, hả ?!
Ông Khàn suyễn chừng như nghe cái giọng đanh đá của bà Đắc mà chạnh lòng toát mồ hôi nhớ tới người vợ yêu dấu của mình đang làm người “lao động phụ” và có lẽ cũng đang nhớ người… “bứt bổi phu” đang xông pha đi vào nơi gió cát ở Bình Điền nầy. Càng nhớ vợ… chả hiền, ông Khàn càng bứt nhanh như máy. Thằng Bảo cận không buồn hay không thấy đường phân biệt cây lá loại gì, cứ hiên ngang quơ, quào, hốt gọn và mang về chất đống. Gặp cây cành gai nhọn nó chỉ dám la oai oái chút đỉnh rồi thôi.
Bà Đắc chắp tay sau đít, đi đi lại lại như tướng tư lệnh thị sát mặt trận. Tôi thì cứ tà tà “lãnh đạo” không biết làm gì. Ấy thế mà chẳng bao lâu, đống cây xanh đã chất cao thành đống đầy khí thế. Ông tổ trưởng đến thăm, thấy đống bổi từ đằng xa đã vội la lên:
- Bổi đạt quá chỉ tiêu rồi. Tôi sẽ báo cáo lên trên để tuyên dương cho thầy trưởng nhóm.
Bà Đắc tủm tỉm cười, rồi nói một cách đầy triết lý… nước lèo :
- Mấy thằng cha sợ vợ như ngựa có cương, được việc hơn mấy cha yên hùng hát bội đó thầy.
Tôi đang… lãnh đạo mà nghe mụ Đắt nói, tôi cũng hơi cảm thấy nhồn nhột như mình đang bị nhà đạo đức biết chuyện thâm cung bí sử mà buông lời mai mỉa.

***
Lao động vượt chỉ tiêu. Nghỉ sớm. Tôi đi xuống vùng thị tứ Bình Điền. Nhà ở và quán tranh gần nhau như muốn dựa vào nhau mà tránh gió. Đi trong nắng chiều Bình Điền, tôi có ý nghĩ ngồ ngộ rằng, cô đơn như lá tranh khô mà cũng được cái hạnh phúc cuối cùng nương nhau vừa bạn vừa bè làm mái chắn. Không tình cờ, nhưng khi nhìn trụ sở Uỷ Ban Nhân Dân thị xã Bình Điền, tôi cũng mường tượng ra thằng bạn cũ nghe nói đang làm sếp lớn ở đó. Lửng thửng đi quanh khu “thị tứ” với tâm trạng kẻ không nhà. Đi loanh quanh bỗng đâu lại tới ngay trụ sở văn phòng. Gặp lại Trần Kiên Nhẫn, thằng bạn học nối khố một thời nay đang làm chủ tịch thị xã, tôi không tránh được sự xúc động nhưng vẫn cố dửng dưng vì sợ cảnh “ai công hầu, ai khanh tướng…” Thế nhưng sự vồn vã ấm áp của nó làm tôi quên hết. Hắn vẫn là thằng ăn nói khôn khéo trong tương quan công việc, nhưng lại rất bạt mạng kỳ hồ với bạn bè thân thương:
- Thằng cù lần! Tự nhiên lù lù vác mặt lên chốn sơn lâm ni mà không nói chi cho tao biết trước cả.
Tôi chống chế một cách thiệt tình :
- Tao đi lên đây lao động sản xuất mắc mớ chi mà phải nhắn mi trước. Ê ! Mi nói chuyện với tao ở đây có “vấn đề” chi cho mi không hả ?
Nó cười tướng :
- Mi lên đây lao động chứ có phải lên đây ăn trộm sắn khoai đâu mà lo biển lo rào dữ rứa. Có quái gì quan trọng đâu mà mi phải nhắc.
Tôi dè dặt hơn :
- Tao sợ mất tiếng cho mầy chứ tao chừ chỉ còn mạng cùi, có chi để mất nữa mà lo.
Hắn cười cười ra dáng kiêu bạt :
- Mi làm tao thất vọng. Mi là thằng con trai Huế, hào khí ngất ngưởng một thời. Con trai Huế chẳng là cái quái chi cả nhưng hắn biết cười cợt trên sự mất còn trong khi thiên hạ cứ lo sốt vó trong thời buổi vàng thau lẫn lộn ni. Mầy mất cái chi ? Tao được cái chi, hả ?
- Nữa! Không lẽ chừ đến phiên mi lên lớp tao. Mầy làm chủ tịch, tao bị đuổi dạy phải đi lao động mà còn hỏi vớ vẩn kiểu đó cũng lạ đời.
- Rỡm dễ sợ! Lại đem thế đứng thế ngồi ra mà so mũi hơn thua nữa rồi. Ừ, mà thiệt tình vẫn có thằng coi tí chức vụ còm là cái mã để bám vào mà vênh váo với thiên hạ. Tao khác. Mầy còn mầy hay mầy đã đánh mất chính mầy mới là điều đáng nói.
Tôi im lặng. Nhìn nắng chiều Bình Điền mầu vàng xanh nhạt đang xuống bên kia đồi thật đẹp. Đẹp có sẵn từ mong manh hay mong manh tạo nên tâm lý đẹp. Tôi không biết nhưng lại chợt nghỉ đến đống bổi, ông Khàn, bà Đắc, Bảo cận và chính mình. Lịch sử đống bổi làm nên bởi bàn tay nứt nẻ của ông Khàn, bởi đôi mắt gần mù và thân hình còm cõi của Bảo Cận, bởi sự lém lỉnh quyết đoán của bà Đắc và rất có thể, bởi nguồn cảm xúc mơ hồ quanh một gã thầy giáo lỡ vận như tôi… và có thể bởi cả anh Trung tổ trưởng và những người khác nữa. Sự tương tác khi thấy được, khi khuất lấp nhưng cả một chuỗi sự việc từ đâu đó, dấy lên, kéo dài và tác động lên nhau thành những hiện thể hay tình thế ra ngoài ước định ban đầu. Tôi nhớ ý niệm “duyên khởi” của đạo Phật rồi tự cho mình tưởng tượng… vô duyên !
Tôi bước theo Nhẫn về khu nhà ở của hắn. Thấy tôi trầm ngâm bước đi, nó hỏi :
- Mi buồn ?
- Không !
- Cái miệng tía lia của mầy mô rồi ?
Tôi không trả lời mà hỏi lại nó :
- Làm chi tối nay ?
Nhẫn trả lời như đã sắp sẵn :
- Uống rượu tắc kè Bình Điền.
- Tắc kè ? Tắc kè là cái chi chi ?!
Nó đưa ngón tay lên miệng “suỵt” một tiếng và nói thì thào :
- Mi nghe chi không ?
- ?!
- Tiếng kêu “tắc kè” của loại kỳ nhông nhỏ đó mà. Người ta còn gọi giống kỳ nhông nhỏ này là tắc kè vì tiếng kêu của nó. Tắc kè ngâm rượu là sản phẩm độc chiêu của Bình Điền. Thức trắng đêm mà có uống rượu tắc kè vào là ngày mai không biết mệt.
Tôi chẳng phải là dân sành rượu nên chẳng có kinh nghiệm gì về rượu rắn, rượu nhung, rượu sinh vật trên rừng dưới biển gì cả. Nhưng đêm Bình Điền lộng gió cột chân chúng tôi trong căn lều của Nhẫn. Có thêm Lê Văn Ngưu, thằng bạn cùng lớp, nghe nói đang làm chủ trại bò hay giữ bò thuê trong trại bò Bình Điền tôi không rõ lắm, đã làm cho cuộc rượu tay ba ấm lên thành thú vị.
Cuộc rượu thâu đêm nói về con trai Huế. Con trai Huế trong thi ca, trong văn học nghệ thuật nói chung, trong học hành và trong chính trị. Sự so sánh khá thú vị về con trai Huế và con trai Giảng Võ chính hiệu Hà Nội. Đó là lớp người khá tài hoa nhưng trái tim cảm xúc thường lớn hơn ý chí quyết đoán nên trong chính trị thường “làm thầy cho những ông vua tương lai ; nói cho vua nghe mà không có ai được lên làm vua cả.” Ngưu nêu thắc mắc về những ông vua nhà Nguyễn, xuất thân cũng là những chàng trai xứ Huế thì sao. Nhẫn nhận xét từ thái tử Đởm (vua Minh Mạng) trở về sau đều là những người được “ra” làm vua, nghĩa là được thế lực đằng sau đưa ra chứ không phải tự mình đứng lên chiến đấu, tranh hùng mà có.
Ba đứa chuyền quả bóng “con trai Huế” quanh các nhân vật có tiếng tăm một thời của Huế. Tấm lòng yêu nước lãng mạn thường đưa đến lãng mạn chính trị. Cái dễ thương của lãng mạn chính trị là lúc lên đường với một trời mơ ước; nhưng cái dễ ghét là khi lãng mạn biến thành hiện thực và tự cho là mơ ước đã thành công thì quả cầu ngũ sắc lại từ từ xì hơi. Người con trai Huế vẫn một đời đi hoài như con ngựa chiến mãi miết chạy quanh chiến trường xưa nay đã thành đồng cỏ.
Trời hừng sáng. Ngưu kết luận và hỏi Nhẫn :
- Lãng mạn chính trị rất gần với ảo tưởng. Rứa thì ảo tưởng có làm cho người ta hạnh phúc không ?
Nhẫn cười mũi, trả lời :
- Mi phải hỏi trước rằng, thế nào là hạnh phúc và hạnh phúc đối với người nầy có phải là hạnh phúc đối với người kia không cái đã? Bà già tao cho cuộc sống bếp núc là hạnh phúc; mà ông già thì cho là bất hạnh. Trong khi ông già cho những bài thơ của ông làm ra là nguồn hạnh phúc; mà bà già lại thấy thơ thẩn còn vô dụng hơn là những tiếng ếch nhái kêu ngoài bụi tre… thì cũng chẳng có ai sai, ai đúng.
Tôi trưng cầu ý kiến cả hai :
- Vậy thì cả hai đứa bây cho rằng yêu nước lãng mạn và lãng mạn chính trị là hạnh phúc hay bất hạnh.
Thằng Ngưu không nói gì. Có lẽ nó đang nghĩ đến bầy bò sắp được lùa đi ăn sáng. Và cũng có lẽ thằng Nhẫn đang nghĩ đến xấp hồ sơ kiện cáo chưa duyệt nên trả lời :
- Yêu nước lãng mạn chắc chắn là hạnh phúc. Còn lãng mạn chính trị thì hạnh phúc hay bất hạnh thì tùy người, tùy cảnh.
- Với mi thì sao ?
Tôi hỏi gọn và nó cũng trả lời gọn :
- Cả hai !
Thằng Ngưu trả bài thu hoạch :
- Tao cho rằng, hết thảy những thằng con trai Huế lãng mạn kiểu nào rồi cũng sướng. Bằng chứng là cuối đời gã nào cũng thành nghệ sĩ theo kiểu riêng của hắn. Viết lách lai rai, làm thơ ướt át, vẽ vời hứng khởi, hát hỏng tiêu dao, ngâm thơ cạn chén hay im lặng tràn trề… mà không thấy tay mô điên cả.
Có tiếng mụ Đắc kêu ông Khàn đi bứt bổi. Nắng lên. Ba đứa chia tay. Nhìn thẩu rượu tắc kè đã cạn. Ba thằng ôm nhau từ giã và cùng cười. Hình như không có thằng nào mệt sau một đêm trắng nói chuyện đời mình như nói chuyện đời ai bên thẩu rượu tắc kè.

Napa, đầu thu Cali – chưa đi đã nhớ – 2007
Trần Kiêm Đoàn

Tuesday, September 11, 2007

Tâm thức Việt trên đất Mỹ--Lê Đình Phương


Lịch sử khốn khó và hào hùng của dân tôi, đâu cần chứng nghiệm bằng những lời rao giảng cao xa! Chẳng vậy mà chỉ qua một buổi chiều xem tranh Việt ở nhà BS Đỗ, bóng dáng tiền nhân tôi bao đời giũ cỏ, lật đá, dệt vải, ngâm thơ, đánh giặc, ru con… suốt bốn ngàn năm nhọc nhằn, đã làm tim tôi bỗng ngập tràn sự thành kính và lòng ngưỡng vọng sâu xa về tâm linh và cội nguồn bất diệt của dân tộc.

Chẳng biết vì sao, hay chắc tại cung Di tử vi tôi có Nữ thần tự do chiếu mạng nên những chuyến đi dài dằng dặc đến Mỹ đều hướng đến bờ Đông: Florida với khu La Tampa tuyệt vời sang trọng, Boston với mùa thu vàng huyền hoặc, Washington với hoa đào nở như chốn bồng lai…Bờ Đông lạnh giá của Hiệp chủng quốc Hoa kỳ, cổ xưa và đầy thắng tích, dường như khác hẳn bờ Tây đầy nắng ấm, phồn hoa, náo nhiệt như vẫn thường thấy trên các phim ảnh Hollywood. Ứơc ao đến bờ Tây rồi cũng thành, khi cuộc họp thường niên của Hội Gan mật Mỹ năm nay được tổ chức ở San Francisco. Thích nhé!
Cái sự “đáng phàn nàn” của Cựu Kim Sơn (?)
Đến San Francisco sau chuyến bay đăng đẳng 18 giờ, lang thang mò mẫm một tuần, tôi nhanh chóng hiểu được câu nói đầy tiếc nuối của Rudyard Kipling: “San Francisco chỉ có một điều duy nhất đáng phàn nàn, là nơi chốn này thật khó rời xa!” Quả đúng như vậy, vì San Francisco quả tình là đẹp, hoa lệ theo cái đẹp đa chủng, đa văn hóa của nước Mỹ. Nơi đây, bạn thấy được dinh thự đền đài theo kiểu Tây Ban Nha, bạn lặng lẽ thả bước dạo quanh khu vườn Nhật tuyệt đẹp, quà tặng của thị trưởng Osaka dành cho thành phố, bạn háo hức rảo quanh cung Nghệ thuật Golden Gate xây theo kiểu Athens Hy lạp. Và thoắt một cái, bạn lạc bước xuống phố Tàu theo chuyến cable car đặc trưng của miền Viễn Tây Hoa kỳ, mũi bạn lại phập phồng vì mùi chiên xào, “Wan-ton mee” (mì Quảng đông) rất đỗi “Ba Tàu”, trong khi mắt lại hấp háy vì màu đỏ Trung Hoa giăng mắc mọi nơi trên nền trời xanh ngắt Cựu Kim Sơn…Thành phố đầy sắc màu và đa chủng, náo nhiệt và tấp nập, ồn ả đan xen thanh tĩnh, “sang” xen lẫn với “sến”, thấp cao chập chùng trên những triền đồi…Đó là San Francisco khi tôi đến vào một ngày tháng 11. Cái đẹp đầy sắc màu, sản phẩm của một nền văn hóa đa chủng, đa sắc tộc thật khó mà cảm nhận được hết, huống hồ là kể lại trong một vài dòng ngắn ngủi.
Đừơng thiên lý đến Las VegasĐiều in đậm trong ký ức tôi là chuyến đi xuyên sa mạc Nevada với một người bạn cũ thân thiết mới gặp lại sau 25 năm xa cách. Rời San Diego, L. chở tôi dọc theo một đường cao tốc xuyên tiểu bang với tốc độ 80 dặm một giờ. Vậy mà cũng mất 6 tiếng mới đến nơi. Quả thực, nước Mỹ có quyền tự hào về hệ thống xa lộ cực tốt của mình. Làm sao giữa một vùng sa mạc khô cằn khắc nghiệt, người ta có thể kiến tạo lên một con đường hun hút, mà xe chạy mòn bánh, “chó chạy cong đuôi” cũng chỉ thấy hai bên đường là núi và xương rồng, không một bóng người hay nhà cửa. Những ngọn núi nhấp nhô, đủ hình thù mà ánh nắng xiên khoai càng làm nổi bật những hình khối đậm nhạt thật kỳ lạ, làm cho không thể không nhớ tới viên mục sư trong một truyện ngắn của Somerset Maugham nằm mơ thấy núi Nevada mà liên tưởng đến bộ ngực đàn bà (?). Hay những bụi xương rồng sa mạc, lẻ loi, đơn độc ngả bóng lên nền trời xanh thẳm, y chang như những ký ức tuổi thơ về chàng Dzăng gô và mọi da đỏ mà tuổi thơ tôi vẫn thường dấm dúi đọc trong những năm tiểu học. Sa mạc không một bóng người, chỉ có con đường thiên lý, cắt một nhát khi thẳng tắp khi quanh co, xẻ núi xuyên đồi đến tận chân trời. Lạy Cao tiên sinh thứ lỗi, nếu người có dịp đi xa lộ xuyên bang như tôi, chắc người sẽ cảm khái ngâm ngợi: “Freeway như kiếm dựng trời xanh”! chứ chẳng chơi. Cái nhân tạo, dù là một con đường xa lộ phẳng phiu cực tốt, được đặt giữa đất trời bao la, cũng có cái kỳ vĩ và giá trị mỹ học của riêng nó.
Rồi tôi cũng đến được Las Vegas chói lòa đầy ánh sáng, trong những ngày kỷ niệm 100 năm thành phố này mọc lên sừng sững giữa sa mạc. Quả tình ai đó nói không sai, chưa đến Las Vegas, một thành phố rặt Mỹ, chưa thấy được cái hoa lệ tột cùng của nước Mỹ. Trời ạ, Las Vegas là nơi mà bao nhiêu sáng tạo thông minh của con người đều được tập trung để khuyến khích người ta tiêu tiền, ăn chơi, nhậu nhẹt, bài bạc thỏa thích mà không hề tiếc rẻ đồng tiền mình đã bỏ ra. Nghệ thuật câu khách của công nghệ giải trí kiểu Mỹ ở Las Vegas quả thật đã đến mức siêu đẳng.
Giải trí kiểu Mỹ là vậy, chu đáo và tận tình hết chỗ chê. Cẩn thận đến độ trong sòng bạc cũng có máy phá rung tim (defribrillator), để sẵn sàng cấp cứu những con bạc muốn chầu trời vì vỡ tim sau hồi đỏ đen. Chu đáo đến độ cạnh sòng bạc cũng có nguyện đường, chắc để các em trúng mánh tạ ơn Trời Phật cho được bạc. Tận tình đến độ có luôn cả một phức hợp trông trẻ với đủ thứ trò chơi, cung cấp cả máy nhắn tin thông báo mỗi 15 phút con mình đang “làm gì, ở đâu, với ai” để cho các bậc phụ huynh khả kính tha hồ đỏ đen. Thích nhé, vì “cả nhà ta, cùng vui” mặc dù… không “bên nhau” như lời bài hát mà mấy em nhi đồng bên nhà thường nghêu ngao!
Không chỉ là nơi hưởng thụ dành cho quí ông, Las Vegas còn có những boyshow mà diễn viên là những chàng trai đủ màu da, mặt đẹp như ngọc mà thân hình thì như Hercules tái thế. Chẳng biết mấy quí mỹ nam tử này diễn trò gì trong cái show dành riêng cho quí bà quí cô thưởng lãm? Nhưng đứng quan sát đám đông toàn phụ nữ ùa ra, nhí nhố, hể hả, đầy mãn nguyện và khoái hoạt sau show diễn, nhìn mặt em nào cũng thấy câu “mẹ ơi con muốn lấy chồng”(?). Rõ khổ cho tôi là gã tò mò quan sát mà không nhịn được tiếng cười khùng khục muốn bể cả đan điền!
Người ta đến Las Vegas không chỉ để đánh bạc! Las Vegas, thành phố tội lỗi (sinful city) theo chính cách gọi của người Mỹ, đang chuyển mình để “lành mạnh hóa” hình ảnh của chốn ăn chơi này. Ngày tôi đến, Las Vegas có những sự kiện mà ngay cả New York hay Boston phải ganh tị. Show diễn “A new day” của Celine Dion, ảo thuật của David Copperfield bằng xương bằng thịt, liveshow của Paul McCarney lãng tử của ban Beatle huyền thoại…Đó là chưa kể đến cuộc triển lãm tranh của trường phái ấn tượng từ Corot đến Van Gogh. Ngạc nhiên chưa, đừng có chê Las Vegas là đất đỏ đen nữa nhé, người ta cũng đầy tính nghệ thuật như ai chứ bộ.
Không nghệ thuật sao được, khi cả một nền công nghiệp giải trí khổng lồ như Las Vegas, chỉ nhằm một mục tiêu là khuyến khích người ta tiêu tiền và quên hết mọi sự chết tiệt trên đời. Vì nó quả thật đáng đồng tiền như cái show diễn tuyệt diệu của đoàn xiếc lừng danh Cirque du Soleil. Mặc dù được bạn hào hiệp chiêu đãi, tôi vẫn không khỏi giật mình khi biết giá vé trên trời. Nhưng quả thật danh bất hư truyền, vì trong 2 tiếng đồng hồ, những vũ công thượng thặng của Cirque du Soleil đã giúp cho tôi hiểu thêm về cái ranh giới rõ ràng giữa cái đẹp của ngôn ngữ hình thể và sự khiêu dâm thô thiển. Bằng ánh sáng, nước, lửa, đu dây, âm nhạc…tất cả trong một chuyện kể đầy bí ẩn và mê hoặc về những cung bậc của tình yêu, sự thăng hoa của những phút giây luyến ái ngây ngất và đầy biểu cảm, được khắc họa một cách sống động và đẹp đến thót tim. Một bản tụng ca tình yêu bằng âm nhạc và ánh sáng, bằng hình thể và vũ đạo, gợi cảm và hồi hộp (sexy and thrilling) như một bỉnh bút của New York Times bình luận thực không quá lời. Mà không “đã”, không hay sao được, vì vũ công của Cirque du Soleil là dân ba lê Liên xô cũ lưu lạc qua đây, cộng thêm sự chăm chút thần sầu của kỹ thuật âm thanh ánh sáng tuyệt chiêu. Không hay sao được?

Las Vegas là vậy! Một thành phố Mỹ 100% mà không nơi nào có được. Đến Las Vegas, đừng nghĩ đến những khám phá về tính chất hợp chủng về văn hóa như ở San Francisco, hay tìm kiếm những giây phút “hoa xoan rụng sau hè” hay “ngoài kia sân nở một cành mai”. Las Vegas là đèn màu nhấp nháy thâu đêm, là những phức hợp ăn chơi tráng lệ ngang tầm cung điện vua chúa châu Âu, là những sòng bài mịt mùi khói thuốc với hàng vạn con người, là những bữa tiệc mà bao nhiêu món ngon vật lạ trên đời đều có mặt…Las Vegas rặt Mỹ đến độ chỉ trong 2 ngày ngắn ngủi lọt thỏm trong biển ngừơi mênh mông, kẻ lang thang da vàng là tôi bắt đầu lờ mờ cảm nhận được cái shock của sự dị biệt kinh khủng về văn hóa, thấy được cái khoảng cách mênh mông giữa quê hương tôi “mẹ già cuốc đất trồng khoai” với cái thế giới ngựa xe như nước với bao cuộc vui thâu đêm suốt sáng như Las Vegas.

Ngược dòng về tâm thức Việt
Làm sao văn hóa Việt, bản sắc Việt không bị đè bẹp và có thể trừơng tồn trên đất Mỹ, nơi đã sản sinh một nền văn hóa giải trí đầy thực dụng như Las Vegas được?
Vậy mà có đấy! Tôi tìm được câu trả lời trong một bữa ăn tối với gia đình BS Đỗ, một người Việt định cư ở Mỹ đã 30 năm. Căn nhà với phiên bản trống đồng trên vách, bụi chuối khóm tre trong góc phòng, tranh tố nữ…cộng với sự lịch lãm và hiếu khách đầy chất Á đông của chủ nhà làm cho tôi nhẹ lòng. Cái nhẹ lòng ấm áp của hai chữ đồng bào trên đất khách, của câu chuyện về cái bọc trăm trứng của dân tộc Việt. Không ấm lòng sao được khi biết được trên đất Mỹ bao la, vợ chồng bác sĩ Đỗ vẫn âm thầm nuôi dưỡng nền văn hiến Việt cho các con cái sinh ra trên đất Mỹ của mình. Không chỉ bằng ngôn ngữ Việt, mà bằng lịch sử ngàn năm của quê hương qua những tập sách Tôi yêu quê tôi, được gia chủ biên soạn công phu, in ấn đẹp, trang nhã. Xa quê, vợ chồng bác sĩ Đỗ bày tỏ lòng thương nguồn nhớ cội không chỉ qua những điều trông thấy, mà qua những điều cảm thấy bằng những truyện tranh, giản dị và cảm động về cổ tích Việt nam, như một lời tự tình (recitatif) thầm lặng hướng đến quê hương rất gần gũi, mà cũng rất đỗi xa xăm bên kia bờ Thái bình dương.
Lòng thương nhớ quê cha đất tổ của cha mẹ qua những trang sử, truyện cổ Việt nam bằng song ngữ Anh Việt đã nảy mầm trong Linh Đan, con gái của BS Đỗ. Sinh ra ở Mỹ, học trường Mỹ, nói tiếng Mỹ, và có thể…, suy nghĩ cũng như Mỹ, chưa một lần đặt chân đến Việt nam. Vậy mà cô sinh viên ngành Kiến trúc của Đại học Texas có thể viết được những dòng thật giản dị nhưng không kém phần minh triết về cái mà ta vẫn thường gọi bằng một cụm từ to tát là “hội nhập văn hóa”:
"Khi chúng tôi còn nhỏ, lúc nào cha mẹ chúng tôi cũng nhắc đến văn hóa VN.
Thường vào những buổi sáng thứ bảy, mẹ tôi dạy các chị em chúng tôi học địa lý VN và học về các anh hùng và anh thư nước Việt. Khi chúng tôi lớn lên, mẹ tôi dạy thêm Hán-Việt, thơ văn và dịch Anh-Việt Việt-Anh.
Buổi tối, cha mẹ chúng tôi kể chuyện cổ tích cho chúng tôi khi chúng tôi vào giường ngủ.
Vì mẹ tôi viết sách về văn hóa VN, ca dao và tục ngữ thành ra thông dụng trong đời sống hằng ngày của chúng tôi. Bố chúng tôi say mê nghệ thuật và những hình ảnh về VN làm cho chúng tôi cũng bị ảnh hưởng theo. Những hình ảnh về danh lam thắng cảnh, đền đài, dinh thự và cổ vật VN đã in sâu trong tâm trí chúng tôi.
Bây giờ, khi tôi đi Đại học, tôi mới nhận ra là chúng tôi đã được may mắn có cha mẹ ham mê tìm hiểu văn hóa VN và truyền dạy lại cho chúng tôi. Tôi thấy càng ngày tôi càng thích văn hóa VN nhiều hơn. Tôi muốn sống theo những giá trị truyền thống của tổ tiên đã để lại, làm những món ăn VN, đọc về lịch sử và phong tục VN. Tất cả những gì liên hệ đến VN đều làm cho tôi cảm thấy thân thiết với một di sản, một đất nước và dân tộc VN - mặc dù tôi sinh ra và lớn lên ở Hoa Kỳ.
Văn hóa và những giá trị truyền thống không những không lỗi thời mà vẫn còn thích hợp với đời sống tân tiến tại Hoa Kỳ. Tôi tin tưởng một sự hiểu biết sâu xa về văn hoá và những giá trị truyền thống có thể làm phong phú đời sống hiện đại của chúng ta rất nhiều"

Vậy đó, chẳng vậy mà tôi đã kinh ngạc và thán phục biết bao khi nhìn bức tranh minh họa truyện con Rồng cháu Tiên mà Linh Đan vẽ minh họa cho cuốn sách của mẹ mình. Như những nông dân Việt nam bao đời cần cù gieo hạt, chăm bón cho mảnh đất thân yêu của mình, hạt mầm văn hóa Việt mà vợ chồng BS Đỗ vun xới trong lòng con cái trên đất Mỹ đã đơm hoa qua nét vẽ còn mang nét trẻ thơ, bằng trí tưởng tượng của các con mình về một nơi chôn nhau cắt rốn, thật gần gũi mà cũng rất đỗi xa xôi. Lịch sử khốn khó và hào hùng của dân tôi, đâu cần chứng nghiệm bằng những lời rao giảng cao xa! Chẳng vậy mà chỉ qua một buổi chiều xem tranh Việt ở nhà BS Đỗ, bóng dáng tiền nhân tôi giũ cỏ, lật đá, dệt vải, ngâm thơ, đánh giặc, ru con… suốt bốn ngàn năm nhọc nhằn, đã làm tim tôi bỗng ngập tràn sự thành kính và lòng ngưỡng vọng sâu xa về tâm linh và cội nguồn bất diệt của dân tộc.

Huyền sử Việt không thiếu nỗi chia xa, đến nỗi chuyện Lạc Long Quân - mẹ Âu Cơ trăm trứng với cuộc chia con lên rừng xuống biển cũng có thể được kiến giải như một cuộc ly dị, hay ly tán đầu tiên của dân tộc Việt. Đúng sai thế nào chẳng biết, chỉ biết rằng ngàn năm sau kể từ thuở Việt Thường, lữ khách đi qua nước Mỹ trong một chiều đông là tôi, nhìn mẹ Âu Cơ qua nét vẽ Linh Đan, tự dưng thấy lòng dâng lên những điều sâu thẳm lạ lùng, không tài nào nói được nên lời. Tổ tiên tôi ly tán để khai sơn phá thạch mở mang bờ cõi, dù cái giá là sự chia ly nhưng chưa hề rẽ đàn tan nghé. Tôi đây, ngược dòng thời gian làm khách viễn du bên dòng Hồng hà cuồn cuộn phù sa, nhìn dòng nước thời gian mang con dân Việt bập bềnh lưu lạc muôn phương. Dòng máu rồng tiên vào thuở hồng hoang ấy, có ai ngờ phiêu bạt qua mãi bên kia bờ Thái bình bao la. Làm sao nói được nên lời sự kinh ngạc và thán phục khi thấy dân tôi máu đỏ đầu đen, vẫn vừa âm thầm nhẫn nại mưu sinh, vừa nuôi dưỡng vun đắp cội nguồn trên đất khách? Làm sao dòng chảy lịch sử khúc khuỷu và chông gai của dân tôi, khi rẽ nhánh vào Hiệp chủng quốc Hoa kỳ, lại không bị tan biến, đồng nhất trong cái biển đa chủng mênh mông đó? Vì sự dung nạp văn hóa (cultural tolerance) của nước sở tại, hay lớn lao hơn, vì cội rễ tâm linh của dân tôi bất diệt tự bao đời? Tôi, cái trứng trong bọc trăm con, nhỏ nhoi trôi đi trôi lại giữa hai bờ Đại dương, tự dưng thấy vang lên trong lòng một ca khúc hướng đạo của Thẩm Oánh ngày nào, tưởng như dòng nhạc ấy chưa bao giờ xưa cũ:
“Nhà Việt nam, Nam Bắc Trung chung lòng Á đông,
Bốn nghìn năm đó, vang tiếng xây biết bao kỳ công
Ngừơi Việt nam, Nam Bắc Trung chung lòng…“
Coming home, về nhà thôi…..
Ăn cơm Việt, nói tiếng Việt, nghe chuyện cố tích Việt ở nhà BS Đỗ lại làm nhớ quê nhà ghê gớm. Nhớ quán phở ám khói thân quen với cô bán hàng có ánh mắt của một người mẹ khi nhìn thực khách ăn uống ngon lành, nhớ quán cafe góc phố với anh xe ôm rổn rảng, nhớ góc piano bar mù mịt mưa bay với bạn bè thân thiết mỗi đêm, nhớ bao bệnh nhân đang trông ngóng tôi về...Cho tôi xin đủ cafe Starbucks, nói lời tạm biệt Mc Donald, vẫy tay chào Cirque du Soleil...Vì tôi nhớ nhà rồi! Về nhà thôi, giã biệt Las Vegas, San Francisco, Houston, San Diego, Los Angeles...những địa danh trước-lạ-sau-quen nơi đất khách. Về nhà thôi, với hai câu thơ tự trào của ai đó tự dưng bật ra khỏi đầu trong những phút chờ đợi ở sân bay Los Angeles:
“Giang hồ gì ta giang hồ vặt,
Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà”

Coming home, về nhà thôi…..

Sài gòn, một chiều cuối năm
BS Lê Đình Phương,
BV Pháp Việt